Học thuyết
ngũ hành là học thuyết âm dương, liên hệ cụ thể hơn trong việc quan sát quy nạp
và sự liên quan của các sự vật trong thiên nhiên.
Trong y học,
học thuyết ngũ hành được ứng dụng để quan sát quy nạp và nêu lên sự tương quan
trong hoạt động sinh lý các tạng phủ, để chẩn đoán bệnh tật, để tìm tính năng
và tác dụng thuốc, để tiến hành công tác bào chế thuốc men.
2.2. Nội dung của học thuyết ngũ hành
2.2.1. Ngũ hành là gì?
Người xưa thấy
có 5 loại vật chính: kim (kim loại), mộc (gỗ), thuỷ (nước), hoả (lửa), thổ ( đất)
và đem các hiện tượng trong thiên nhiên và trong cơ thể con người xếp theo 5 loại
vật chất trên gọi là ngũ hành. Ngũ hành còn có ý nghĩa nữa là sự vận dộng, chuyển
hoá của các chất trong thiên nhiên và của tạng phủ trong cơ thể.
2.2.2. Sự quy nạp vào ngũ hành trong thiên nhiên và
trong cơ thể con người
Hiện tượng
|
Mộc
|
Hoả
|
Thổ
|
Kim
|
Thuỷ
|
Vật chất
|
Gỗ, cây
|
Lửa
|
Đất
|
Kim loại
|
Nước
|
Màu sắc
|
Xanh
|
Đỏ
|
Vàng
|
Trắng
|
Đen
|
Vị
|
Chua
|
Đắng
|
Ngọt
|
Cay
|
Mặn
|
Mùa
|
Xuân
|
Hạ
|
Cuối hạ
|
Thu
|
Đông
|
Phương
|
Đông
|
Nam
|
Trung ương
|
Tây
|
Bắc
|
Tạng
|
Can
|
Tâm
|
Tỳ
|
Phế
|
Thận
|
Phủ
|
Đởm
|
Tiểu trưởng
|
Vị
|
Đại trường
|
Bàng quang
|
Ngũ thể
|
Cân
|
Mạch
|
Thịt
|
Da lông
|
Xương, tuỷ
|
Ngũ quan
|
Mắt
|
Lưỡi
|
Miệng
|
Mũi
|
Tai
|
Tình chí
|
Giận
|
Mừng
|
Lo
|
Buồn
|
Sợ
|
2.2.3. Các quy luật hoạt động của ngũ hành
a. Trong điều kiện bình thường hay sinh lý
vật chất trong thiên nhiên và các loại hoạt động của cơ thể liên quan mật thiết
với nhau, thúc đẩy nhau để vận động không ngừng bằng cách tương sinh (hành nọ
sinh hành kia, tạng nọ sinh tạng kia) hoặc chế ước lẫn nhau để giữ được thế
quân bình bằng cách tương khắc (hành hoặc tạng này chế ước hành hoặc tạng kia).
• Quy luật tương sinh:
- Ngũ hành tương sinh là chỉ mối quan hệ
sinh ra nhau một cách thứ tự, thúc đẩy nhau phát triển của thuỷ, hoả, mộc, kim,
thổ. Thứ tự của tương sinh là: mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim
sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc. Sự tương sinh này cứ lặp đi lặp lại không ngừng. Nếu
đứng từ một hành mà nói thì sinh ra nó được gọi là “mẹ”, do nó sinh ra được gọi
là con.
- Trong cơ thể con người: can mộc sinh
tâm hoả; tâm hoả sinh tỳ thổ; tỳ thổ sinh phế kim; phế kim sinh thận thuỷ; thận
thuỷ sinh can mộc.
• Quy luật tương khắc:
- Ngũ hành tương khắc là chỉ mối quan hệ
lần lượt ức chế lẫn nhau của thuỷ, thổ, mộc, hoả, kim. Thứ tự của tương khắc
là: mộc khắc thổ, thổ khắc thuỷ, thuý khắc hoả, hoả khắc kim, kim khắc mộc. Quá
trình tương khắc này cũng tuần hoàn không ngừng.
- Trong cơ thể con người: can mộc khắc
tỳ thổ; tỳ thổ khắc thận thủy, thận thuỷ khắc tâm hoả; tâm hoả khắc phế kim; phế
kim khắc can mộc.
b. Trong điều kiện bất thường hay bệnh lý,
có hiện tượng hành nọ, tạng nọ khắc hành kia, tạng kia quá mạnh thì gọi là
tương thừa hoặc hành nọ, tạng nọ không khắc được hành kia, tạng kia gọi là
tương vũ.
• Thí dụ về tương thừa: bình thường can
mộc khắc tỳ thổ, nếu can khắc tỳ quá mạnh sẽ gây các hiện tượng đau dạ dày, ỉa
chảy do thần kinh, khi chữa phải bình can (hạ hưng phấn của can) và kiện tỳ
(nâng cao sự hoạt động của tỳ)
• Thí dụ về tương vũ: bình thường tỳ thổ
khắc thận thủy nếu tỳ hư không khắc được thận thuỷ sẽ gây ứ nước như trong bệnh
ỉa chảy kéo dài gây phù dinh dưỡng, khi chữa phải kiện tỳ (nâng cao sự hoạt động
của tỳ) và lợi niệu (để làm mất phù thũng).
2.3. Ứng dụng trong y học
2.3.1 Về quan hệ sinh lý
Sự sắp xếp
các tạng phủ theo ngũ hành và sự liên quan của chúng đến ngũ vị, ngũ sắc, ngũ
quan, thể chất và hoạt động về tình chí giúp cho việc học về các hiện tượng
sinh lý các tạng phủ dễ dàng, dễ nhớ.
Thí dụ: can
có quan hệ biểu lý với đởm, chủ về cân, khai khiếu ra mắt kích thích điều đạt,
khi uất kết gây giận đữ...
2.3.2 Về quan hệ bệnh lý
Căn cứ vào
ngũ hành tìm vị trí phát sinh một chứng bệnh của một tạng hay một phủ nào đó, để
đề ra phương pháp chữa bệnh thích hợp.
Sự phát sinh
ra một chứng bệnh ở một tạng phủ nào đó có thể xảy ra ở 5 vị trí khác nhau sau
đây:
- Chính tà: do bản thân tạng phủ ấy có
bệnh.
- Hư tà: do tạng trước nó gây bệnh cho
tạng đó, còn gọi là bệnh từ mẹ truyền sang con.
- Thực tà: do tạng sau nó gây bệnh cho
tạng đó, còn gọi là bệnh từ con truyền sang mẹ.
- Vi tà: do tạng khắc tạng đó không khắc
được mà gây ra bệnh (tương thừa).
- Tặc tà: do tạng đó không khắc được tạng
khác mà gây ra bệnh (tương vũ)
Thí dụ: mất ngủ là một
chứng bệnh của tâm có thể xảy ra ở 5 vị trí khác nhau và cách chữa cũng khác
nhau:
+ Chính tà: bản thân tạng tâm gây ra mất
ngủ: như thiếu máu không nuôi dưỡng tâm thần. Khi chữa phải bổ huyết an thần.
+ Hư tà: da tạng can gây bệnh cho tâm:
như cao huyết áp gây mất ngủ. Khi chữa phải bình can (hạ huyết áp) an thần.
+ Thực tà: do tạng tỳ bị hư, không nuôi
dưỡng được tâm thần. Khi chữa phải kiện tỳ an thần.
+ Vi tà: do thận hư không khắc được tâm
hoả gây mất ngủ. Khi chữa phải bổ âm an thần.
+ Tặc tà: do phế âm hư ảnh hưởng đến tâm
huyết gây mất ngủ, khi chữa phái bổ phế âm an thần.
2.3.3. Về chẩn đoán học
Căn cứ vào
những triệu chứng về ngũ sắc, ngũ vị, ngũ quan, thể chất để tìm bệnh thuộc các
tạng phủ có liên quan.
a. Ngũ sắc: sắc vàng bệnh thuộc tỳ, sắc trắng
bệnh thuộc phế, sắc xanh bệnh thuộc can, sắc đỏ thuộc bệnh tâm, sắc đen bệnh
thuộc thận.
b. Ngũ chí: giận giữ, cáu gắt bệnh ở can; sợ
hãi bệnh ở thận; cười nói huyên thuyên bệnh ở tâm; lo nghĩ bệnh ở tỳ; buồn rầu
bệnh ở phế.
c. Ngũ khiếu và ngũ thể: bệnh ở cân: chân
tay run co quắp thuộc bệnh can; bệnh ở mũi: viêm mũi dị ứng, chảy máu cam
v.v... thuộc bệnh phế vị: bệnh ở mạch: mạch hư, nhỏ ... thuộc bệnh tâm; bệnh ở
xương tuỷ: chậm biết đi, chậm mọc răng v.v... thuộc bệnh thận.
2.3.4. Về điều trị học
a. Đề ra nguyên tắc chữa bệnh: hư thì bổ mẹ,
thực thì tả con,
Thí dụ: bệnh
phế khí hư, phế lao... phải kiện tỳ vì tỳ thổ sinh phế kim (hư thì bổ mẹ).
Bệnh cao huyết
áp do can dương thịnh phải chữa vào tâm (an thần) vì can mộc sinh tâm hoả (thực
thì tả con).
b. Châm cứu:
Trong châm cứu
người ta tìm ra loại huyệt ngũ du. Tuỳ kinh âm, kinh dương mỗi loại huyệt tương
ứng với một hành; trong một đường kinh quan hệ giữa các huyệt là quan hệ tương
sinh, giữa hai kinh âm dương quan hệ giữa các huyệt là quan hệ tương khắc. Tên
các huyệt ngũ du được đặt theo ý nghĩa của kinh khi đi trong đường kinh như
dòng nước chảy:
- Huyệt hợp: nơi kinh khí đi vào
- Huyệt kinh: nơi kinh khí đi qua
- Huyệt du: nơi kinh khí dồn lại
- Huyệt huỳnh: nơi kinh khí chảy xiết
- Huyệt tỉnh: nơi kinh khí đi ra
Sơ đồ sắp xếp
các huyệt ngũ du liên quan đến tương sinh, tương khắc của ngũ hành như sau:
Khi sử dụng
huyệt ngũ du để chữa bệnh, người ta cũng thực hiện theo nguyên tắc hư thi bổ mẹ,
thực thì tả con (cách vận dụng du huyệt sẽ nói kỹ ở phần châm cứu).
2.3.5. Về thuốc
a. Người ta tìm kiếm và xét tác dụng của
thuốc đối với bệnh tật các tạng phủ trên cơ sở liên quan giữa vị, sắc với tạng
phủ.
- Vị chua, màu xanh vào can
- Vị đắng, màu đỏ vào tâm
- Vị ngọt, màu vàng vào tỳ
- Vị cay, màu trắng vào phế
- Vị mặn, màu đen vào thận
Người ta còn vận dụng ngũ vị để bào
chế làm vị thuốc thay đổi tính năng và tác dụng cho đi vào các tạng phủ theo
yêu cầu chữa bệnh: sao với giấm cho vị thuốc vào can; sao vối muối cho vị thuốc
vào thận; sao với đường cho vị thuốc vào tỳ; sao với gừng cho vị thuốc vào phế;
v.v...