Trước hết là vì bài Bát Vị không phải của Hải Thượng Lãn Ông, mà nó có xuất xứ rất rõ như tôi đã nêu ở trên. Thậm chí, thời điểm mà vị Sinh địa được thay Thục địa, Quế chi được thay bằng nhục quế là thời điểm mà Hải Thượng Lãn Ông còn chưa làm nghề y.
Đồng thời, khi tôi dụng dược thì tôi có cơ sở của tôi, HTLÔ có cơ sở và tư tưởng của ông, đó không phải là cái đạo, và lại càng không phải là cơ sở buộc tôi phải tuân theo. Điều tiếp theo, chúng ta đều phải nhìn nhận rằng, HTLO là một Nho gia có học thuật xuất chúng, ông có ảnh hưởng không nhỏ đến YHCT của Việt Nam, nhưng ông cũng không thể tránh khỏi nhiều điều sai lầm, mà hậu thế chỉ vì cái bóng quá lớn của ông, không dám nhìn nhận cái sai, không dám chỉ ra cái sai, khiến cho cái sai cứ tồn tại. Tôi xin nói sơ qua những cái sai, mà sau này có dịp, chúng ta sẽ bàn sâu hơn.
Đầu tiên tôi nhận thấy những mâu thuẫn trong lời tự sự của ông trong Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh, trong phần “Y Nghiệp Thần Chương” đoạn trên thì ông nói: “từ năm 50 đến 60; 70 tuổi, ông không nhầm (trong nghề y) nữa”, nhưng sau đó vài dòng ông lại nói: “tuy theo nghề y nhưng không dám chữa bệnh, chữa nhiều thì nhầm nhiều, nhầm nhiều thì âm báo càng nhiều”. Như vậy, tôi nhận thấy, vì sợ âm báo mà không dám chữa bệnh, thì đó là nghĩ cho mình hay nghĩ cho người? bên trên thì nói không nhầm, nhưng bên dưới sợ nhầm, tiền hậu bất nhất như vậy, có đáng tin không? Không chữa bệnh nhiều thì không có lâm sàng nhiều, không có lâm sàng nhiều mà viết sách, hậu thế đọc vào mà ứng dụng thì cái đó có âm báo không? Viết một bộ sách đồ sộ mà không trải qua lâm sàng nhiều, không có nhiều bệnh nhân, thì lấy cơ sở nào để viết? mà nếu có đông bệnh nhân thì thời gian nào để bỏ cả 10 năm trời ròng rã để viết ra một bộ sách đồ sộ như vậy? Bản thân tôi, tôi hy sinh tài sản bản thân, hy sinh tuổi trẻ và hạnh phúc gia đình để học y, cũng chỉ vì chứng kiến nỗi đau đớn do bệnh tật gây ra, đặc biệt là những người nghèo không có tiền chữa bệnh, vậy sự hy sinh đó có bị âm báo không? Nghĩ cho người có bị âm báo không?
Ở phần Đạo Lưu Dư Vận, do quá ấn tượng về tạng Thận, ông vịn vào câu nói của thầy thuốc họ Triệu trong sách Y Quán (sách do Triệu Hiến Khả (赵献可) viết vào năm 1687), mà phủ nhận thuyết Tâm là quân chủ. Ông cho rằng, sách Nội Kinh đã nhìn nhận sai (vấn đề này tôi sẽ bàn kỹ trong các chủ đề sau này). Rồi cũng chính ông là người đầu tiên khiến cho hậu thế nhìn nhận sai lầm và khắc khe về Vương đạo, và Bá đạo là hai pháp trị cụ thể và quan trọng trên lâm sàng của Đông y.
Cũng chính vì câu nói: “Lĩnh Nam ta không có thương hàn” (sau này cụ Hoàng Nguyên Cát (1702 “ 1779) cũng đồng ý với quan điểm này) đã khiến cho chứng cúm không được nhìn nhận đúng. Khi tôi ở Huế, nhân một lần bị cảm thương phong, tôi tìm vị Ma hoàng để lập phương Ma Hoàng Thang uống, thì đa số các vị lương y không có vị này, lại còn cười chế diễu rằng: “làm thầy thuốc thì phải biết câu nói của HTLO rằng: Lĩnh Nam ta không có thương hàn”.
Trên lâm sàng chính nhờ hai bài Quế Chi Thang, và Ma Hoàng Thang, mà tôi đã giúp điều trị nhanh gọn chứng thương phong cho cả hàng bao nhiêu bệnh nhân (chỉ cần 1-3 ngày), đồng thời, trên lâm sàng, thương hàn nhập lý là chứng mà tôi thường chứng kiến, thấy rõ các triệu chứng đúng như trong sách Thương Hàn Luận đã bàn đến. Chỉ vì quy nạp vào đồ hình bát quái một cách máy móc, rồi vội kết luận, khiến thế hệ sau cũng theo đó mà sai, đấy là bất cẩn trong trước tác và phát ngôn vậy.
Những điều trên chỉ là số ít khi tôi đọc Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh. Nhưng không phải vì những điều này, mà tôi nhìn khác đi tính kiệt xuất, uyên thâm trong học thuật của cụ, chỉ vì tôi quan niệm, không thẳng thắn, không nghiêm túc, thì sẽ không bao giờ có được thành quả cao nhất và đúng đắn nhất trong học thuật.
Bây giờ, tôi xin lý giải tại sao tôi lại thường hay dùng Kim Quỹ Thận Khí Hoàn nguyên gốc. Đó là vì, trên thực tế lâm sàng, qua quan sát các thầy thuốc (tôi đã chứng kiến nhiều thầy thuốc lão làng ở cả Hà Nội, và Sài Gòn, và cả chính bản thân tôi) dùng bài Bát Vị Quế Phụ, thì bệnh nhân thường bị ngộ độc nhẹ Phụ tử, dần dần tôi để ý thấy những điều sau:
- Chỉ chứng nào có triệu chứng ngũ canh tả thì không ngộ độc; có thực hàn dương hư thì không bị; thể trạng gầy gò xanh xao, có triệu chứng dương hư, không ham muốn tính dục, dương nuy thì không bị.
- Còn những người có thể chất tráng kiện, chân tay tuy lạnh, sợ lạnh, nhưng dùng vào là bị ngộ độc phụ tử ngay. Hoặc những người đi tiểu bình thường, nhưng thường tiết tả, cẩu lỏng nhiều trong ngày, ham muốn tính dục, nhưng lại mau xuất tinh, dương vật không cương cứng...dùng Quế Phụ Bát Vị thì ngộ độc, nhưng dùng Kim Quỹ Thận Khí thì phục hồi rất nhanh.
Tôi quan sát và suy nghĩ thì nhận thấy, người thời nay, nhà cửa kín đáo, ăn uống đầy đủ, không còn dầm mưa dãi nắng như ngày xưa, nên tình trạng thận dương hư khiến phải dùng đến Quế Phụ Bát Vị rất ít. Bạn cứ thử cho 10 đối tượng thận dương hư dùng Quế Phụ Bát Vị thì có đến 6;7 người có biểu hiện tê dại, nhưng cho dùng Kim Quỹ Thận Khí thì hầu như không có ai bị như vậy cả.
Trên lâm sàng, tôi thường ứng dụng chữa trong các chứng xuất tinh sớm, liệt dương, huyết áp cao thể mỡ máu tăng, rối loạn tiểu tiện, các chứng đau bụng tiết tả, u xơ tiền liệt tuyến, kháng thể kém khiến thường hay cảm mạo, đàm nhiều” chỉ cần linh động gia giảm thì sẽ thâu được kết quả cực kỳ mỹ mãn. Không phải vô cớ mà tôi thường sử dụng bài này. Trên lâm sàng, tôi thường sử Kim Quỹ Thận Khí Hoàn, Lục Vị Địa Hoàng Hoàn (bài Lục Vị ứng dụng thậm kỳ diệu, có thể nói ứng dụng của nó đa dạng gần như không có bài nào vượt qua được).
So sánh các vị thuốc trên chúng ta có thể thấy:
- Sinh địa: vị ngọt, lạnh; vào kinh Tâm, Can Thận. Có công năng thanh nhiệt lương huyết, dưỡng âm, sinh tân. Trị nhiệt bệnh, phiền khát, âm hư nội nhiệt, cốt chưng lao nhiệt, nội nhiệt tiêu khát, thổ huyết nục huyết, phát ban phát chẩn.
- Thục địa: vị ngọt, hơi ấm. Vào kinh Can, Thận. Có công năng tư âm bổ huyết, ích tinh điền tủy. Trị Can Thận âm hư, lưng gối mỏi mềm, cốt chưng triều nhiệt, đạo hãn di tinh, nội nhiệt tiêu khát, huyết hư da vàng vọt, tâm quý chinh xung, kinh nguyệt không đều, băng lậu hạ huyết, huyễn vậng, nhĩ minh, râu tóc bạc sớm.
- Quế chi: vị cay, ngọt, ấm. Vào kinh Tâm, Phế, Bàng quang. Có công năng phát hãn giải cơ, ôn thông kinh mạch, trợ dương hóa khí, bình sung giáng khí. Trị phong hàn cảm mạo, vùng bụng trên đau lạnh, huyết hàn bế kinh, các khớp đau nhức, đàm ẩm, thủy thũng, tâm quý, bôn đồn.
- Nhục quế: Vị cay, ngọt, đại nhiệt. Vào kinh Thận, Tỳ, Tâm. Có công năng bổ hỏa trợ dương, dẫn hỏa quy nguyên, tán hàn chỉ thống, hoạt huyết thông kinh. Chủ trị dương nuy, lạnh tử cung, lưng gối lạnh đau, thận hư sinh suyễn, dương hư huyễn vựng, mắt đỏ họng đau, tâm phúc lạnh đau, hư hàn thổ tả, hàn sán, bôn đồn, bế kinh, thống kinh.
Qua sự so sánh các vị trên, chúng ta có thể nhận thấy, cũng là dương hư, nhưng Quế Phụ Bát Vị thì dùng trong chứng thực hàn, dương hư nặng mà có thực hàn; Kim Quỹ Thận Khí Hoàn thì dùng trong chứng thận dương hư. nhưng không có thực hàn (hư hàn).
Trần Quang Thống.
Xem thêm: