Replied by Nguyen_Dung (Hội Viên)
on 2012-05-16 08:03:23
…
Lại nói về bài Bát vị quế phụ và Kim quỹ thận khí hoàn.
Theo như thầy nói Bát vị quế phụ thì dùng chữa dương hư nặng mà có thực hàn, còn Kim quỹ thận khí thì dùng cho thận dương hư không có thực hàn.
Mà hư thì phải bổ, thực thì phải tả. Như vậy nếu nói về công năng tư bổ thì Thục địa tốt hơn Sinh địa, Quế nhục tốt hơn Quế chi. Nếu vậy đổi lại bài Kim Quỹ Thận Khí để chữa chứng dương hư thực hàn, còn Bát vị Quế Phụ thì chữa dương hư ko có thực hàn thì hợp lý hơn chăng?
"Quế chi thì có công năng phát tán mạnh, phát hãn giải biểu, đi vào kinh Tâm, Phế, Bàng Quang.
Nhục Quế thì đi vào kinh Tỳ, Thận, Tâm, bổ hỏa trợ dương dẫn hỏa quy nguyên."
Như vậy tôi thấy bài Kim Quỹ Thận khí thì có tính tả mạnh, tính bổ kém hơn so với bài Bát vị Quế phụ. Cũng như trong bài trên thầy nói, thời xưa con người phải dầm sương dãi nắng, điều kiện không như thời nay cho nên dễ bị phong hàn xâm nhập, tổn thương chính khí nên người xưa bày ra bài Kim Quỹ Thận Khí. Còn thời nay thì theo các sách tôi đọc (đa phần là sách Tiếng Việt vì tôi không biết tiếng Hán, tiếng Trung, quả là thiệt thòi) thì đều chủ yếu dùng Thục địa thay Sinh địa, Quế nhục thay quế chi để mạnh về pháp tư bổ thận âm thận dương (thậm chí cả các sách giáo khoa dành cho các SV trường Y Học Cổ Truyền chính quy do các giáo sư đầu ngành viết). Vì vậy vẫn chưa được rõ ràng cho lắm.
…
Replied by quangthong02 (Hội Viên)
on 2012-05-16 13:15:38
…
NguyenDung nói không sai chút nào. Bai bài này khác nhau ở chỗ bổ tả. Vì mọi người chưa quen dung hòa giữa hai chữ Vương đạo và Bá đạo, nên tôi không tiện dùng. Thật ra bài Kim Quỹ Thận Khí Hoàn có công năng của bá đạo; Quế Phụ Bát Vị có công năng của Vương Đạo. Trên lâm sàng linh động mà dùng thôi.
Ở tạng Thận không có biểu chứng, vì vậy, thực hàn ở đây nghĩa là Lý thực hàn, do dương hư, hàn thịnh. Vì vậy cần dùng nhục quế có tính đại nhiệt để xua tan hàn khí, dẫn hỏa quy nguyên; dùng Thục địa để ôn bổ âm huyết âm tinh. Thực hàn trong trường hợp này là chân âm thịnh, mà đã là chân âm thì đó là cái vốn tự có của cơ thể, không được làm tổn thương đến nó, do đó không thể tả được.
Còn ở chứng hư hàn thì do thận dương hư là chính, dương khí không ôn ấm quan tiết chi thể, khiến người dễ nhiễm lạnh mà sinh cảm mạo, dương khí hư không ôn ấm cho huyết mạch khiến huyết mạch ngưng trệ, thận khí hư khiến bàng quang đóng mở rối loạn mà sinh tiểu rắt, tiểu buốt, tiểu liên tục. vì vậy, trong chứng này, cần dùng sinh địa để vừa có tính năng như thục địa, lại vừa đi vào kinh tâm để vừa dưỡng huyết, đồng thời hỗ trợ cho Quế chi thông tâm mạch (tâm chủ mạch, chủ quản huyết, huyết ngưng thì tâm mạch ứ trở). Quế chi di chuyển theo chiều ngang và dọc, để thông dương hóa khí, giúp Phế túc giáng, bàng quang khí hóa(nhục quế không vào được bàng quang và Phế, vì vậy không có tác dụng ôn dương khí hóa, mà chỉ có tác dụng theo chiều dọc là dẫn hỏa quy nguyên).
Như vậy có thể thấy, một chứng thì dương hư cực, rời khỏi âm mà đi về nơi của mình (bên trên); một chứng thì dương hư, không ôn ấm huyết mạch chi thể. Hai chứng này cũng là dương hư, nhưng một cái thực, một cái hư. Cái thực là thực nguyên âm, hư nguyên dương; cái hư là hư nguyên dương, nhưng nguyên âm vẫn còn.
Vì vậy, khi chứng thận dương hư không có thực hàn, nếu dùng bài Quế Phục Bát Vị, nguyên âm tổn thương, sẽ khiến cho Phụ tử dư thừa lực mà gây ngộ độc; còn thận dương hư mà có thực hàn, thì không thể dùng dùng Kim Quỹ Thận Khí, mà phải dùng đến bát vị.
Như tôi đã nói ở trên, Về sau bài Quế Phụ Bát Vị xuất hiện trong sách Y Tông Kim Giám thì hậu thế bắt đầu ứng dụng. Còn trước kia, trong sách Thương Hàn Luận, chứng này thường dùng Tứ Nghịch Thang, hoặc tùy trường hợp mà dùng các phương khác, nhưng phương nào cũng có Phụ tử.
Thuốc quý ở chỗ dùng đúng lúc; phép trị hay ở chỗ trị đúng thời. Nhục quế, hay Quế chi; Thục địa, hay Sinh địa khi dùng đúng lúc thì đều quý. Phép trị dù là Vương đạo, hay Bá đạo, nếu trị đúng thời thì đều thiện y.
Cảm Ơn Nguyendung rất nhiều vì đã đặt một câu hỏi rất hay. Nếu thấy còn chỗ nào chưa mãn ý, bạn cứ truy cho đến cùng nhé. Tôi rất thích cách đặt vấn đề rất sâu sắc của NguyenDung.
Chào thân ái!
Trần Quang Thống.
Xem thêm:
Lưu trữ Blog
-
▼
2015
(31)
-
▼
tháng 3
(31)
- XUẤT XỨ CỦA BÀI BÁT VỊ VÀ LỤC VỊ
- So sánh bài KIM QUỸ THẬN KHÍ HOÀN và BÁT VỊ QUẾ PH...
- BÀI HỌC BUỔI SÁNG - TÍNH DƯỢC QUY NẠP
- Giải thích Phần tính Dược Quy Nạp
- BÀI HỌC BUỔI TRƯA - DƯỢC TÍNH CA QUÁT
- Đốc mạch phân thốn ca
- Nhâm mạch phân thốn ca
- Phế kinh phân thốn ca
- Đại trường kinh phân thốn ca
- Tỳ kinh phân thốn ca
- Tâm kinh phân thốn ca
- Tiểu trường kinh phân thốn ca
- Bàng quang kinh phân thốn ca
- Thận kinh phân thốn ca
- Tâm bào lạc kinh phân thốn ca
- Tam tiêu kinh phân thốn ca
- Đảm kinh phân thốn ca
- Can kinh phân thốn ca
- Xung mạch phân thốn ca
- Đới mạch phân thốn ca
- Dương kiều mạch phân thốn ca
- Âm kiều mạch phân thốn ca
- Âm duy mạch phân thốn ca
- Thập nhị kinh tỉnh vinh di kinh hợp nguyên thích t...
- Ngũ tạng tỉnh vinh du kinh hợp ca
- Lục phủ tỉnh vinh du nguyên kinh hợp ca
- Bát mạch giao hội bát huyệt ca
- ĐÔNG DƯỢC PHỐI NGŨ
- Hai bài thuốc nổi tiếng của Trương Trọng Cảnh... Đ...
- So sánh bài KIM QUỸ THẬN KHÍ HOÀN và BÁT VỊ QUẾ PH...
- Đông y trị chứng ra mồ hôi
-
▼
tháng 3
(31)