1.1. Định nghĩa
Cách đây gần
3.000 năm, người xưa đã nhận thấy sự vật luôn luôn có mâu thuẫn nhưng thống nhất
với nhau, không ngừng vận động, biến hoá để phát sinh, phát triển và tiêu vong,
gọi là Học thuyết âm dương.
Trong y học.
Học thuyết âm dương quán triệt từ đầu đến cuối, từ đơn giản đến phức tạp trong
suốt quá trình cấu tạo cơ thể, sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán, và các phương pháp
chữa bệnh y học cổ truyền (thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công v.v...)
1.2. Các quy luật cơ bản trong học thuyết âm
dương
1.2.1. Âm dương đối lập với nhau
Đối lập là sự
mâu thuẫn, chế ước và đấu tranh giữa hai mặt âm dương. Thí dụ: ngày và đêm, nước
và lửa, ức chế và hưng phấn v.v..
1.2.2. Âm dương hỗ căn
Hỗ căn là sự
nương tựa lẫn nhau. Hai mặt âm dương tuy đối lập với nhau nhưng phải nương tựa
lẫn nhau mới tồn tại được, mới có ý nghĩa. Cả hai mặt đều là tích cực của sự vật,
không thể đơn độc phát sinh, phát triển được.
Thí dụ: Có đồng
hoá mới có dị hoá, hay ngược lại nếu không có dị hoá thì quá trình đồng hoá
không tiếp tục được. Có số âm mới có số dương. Hưng phấn và ức chế đều là quá
trình tích cực của hoạt động vỏ não.
1.2.3. Âm dương tiêu trưởng
Tiêu là sự mất
đi, trưởng là sự phát triển, nói lên sự vận động không ngừng sự chuyển hoá lẫn
nhau giữa hai mặt âm dương.
Như khí hậu
4 mùa trong năm luôn thay đổi từ lạnh sang nóng, từ nóng sang lạnh, từ lạnh
sang nóng là quá trình "âm tiêu dương trưởng" từ nóng sang lạnh là
quá trình "dương tiêu âm trưởng” do đó có khí hậu mát, lạnh, ấm và nóng.
Sự vận động
của hai mặt âm dương có tính chất giai đoạn, tới mức độ nào đó sẽ chuyển hoá
sang nhau gọi là "dương cực sinh âm, âm cực sinh dương; hàn cực sinh nhiệt,
nhiệt cực sinh hàn".
Như trong
quá trình phát triển của bệnh tật, bệnh thuộc phần dương (như sốt cao) có khi
gây ảnh hưởng đến phần âm (như mất nước), hoặc bệnh ở phần âm (mất nước, mất điện
giải) tới mức độ nào đó sẽ ảnh hưởng đến phần dương (như choáng, truỵ mạch gọi
là thoát dương).
1.2.4. Âm dương bình hành
Hai mặt âm
dương tuy đối lập, vận động không ngừng, nhưng luôn lặp lại được thế thăng bằng,
thế quân bình giũa hai mặt.
Sự mất thăng
bằng giữa hai mặt âm dương nói lên sự mâu thuẫn thống nhất, vận động và nương tựa
lẫn nhau của vật chất.
Từ 4 quy luật
trên, khi vận dụng trong y học người ta còn thấy một số phạm trù sau:
a. Sự tương đối và tuyệt đối của hai mặt
âm dương:
Sự đối lập
giữa hai mặt âm dương là tuyệt đối, nhưng trong điều kiện cụ thể nào đó có tính
chất tương đối. Thí dụ: hàn thuộc âm đối lập với nhiệt thuộc dương, nhưng lương
(là mát) thuộc âm đối lập với ôn (là ấm) thuộc dương. Trên lâm sàng tuy sốt (là
nhiệt) thuộc dương, nếu sốt cao thuộc lý thuộc lý dùng thuốc hàn, sốt nhẹ thuộc
biểu dùng thuốc mát (lương).
b. Trong âm có dương và trong dương có âm:
Âm và dương
nương tựa lẫn nhau cùng tồn tại, có khi xen kẽ vào nhau trong sự phát triển.
Như sự phân chia thời gian trong một ngày (24 giờ): ban ngày thuộc dương, từ 6
giờ sáng đến 12 giờ trưa là phần dương của dương. Từ 12 giờ đến 18 giờ là phần
âm của dương; ban đêm thuộc âm, từ 18 giờ - 24 giờ là phần âm của âm từ 0 giờ đến
6 giờ là phần dương của âm.
Trên lâm
sàng, khi cho thuốc làm ra mồ hôi để hạ sốt, cần chú ý tránh cho ra mồ hôi nhiều
gây mất nước và điện giải, về triệu chứng thấy xuất hiện các chứng hư thực, hàn
nhiệt lẫn lộn. Về cấu trúc của cơ thể, tạng thuộc âm như can, thận có can âm
(can huyết), can dương (can khí), thận âm (thận thuỷ), thận dương (thận hoả)
v.v...
c. Bản chất và hiện tượng:
Thông thường
bản chất thường phù hợp với hiện tượng, khi chữa bệnh người ta chữa vào bản chất
bệnh: như bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc hàn.
Nhưng có lúc
bản chất không phù hợp với hiện tượng gọi là sự "thật giả" (chân giả)
trên lâm sàng, khi chẩn đoán phải xác định cho đúng bản chất để dùng thuốc chữa
đúng nguyên nhân.
Thí dụ: Bệnh
truyền nhiễm gây sốt cao (chân nhiệt) do nhiễm độc gây truỵ mạch ngoại biên làm
chân tay lạnh, ra mồ hôi lạnh (giả hàn) phải dùng thuốc để chữa bệnh.
- Bệnh ỉa chảy do lạnh (chân hàn) do mất
nước, mất điện giải gây nhiễm độc thần kinh làm co giật, sốt (giả nhiệt) phải
dùng các thuốc nóng, ấm để chữa nguyên nhân.
Các quy luật
âm dương, các phạm trù của nó được biểu hiện bằng một hình tròn có hai hình
cong chia diện tích làm hai phần bằng nhau: một phần là âm, một phần là dương.
Trong phần âm có nhân dương và trong phần dương có nhân âm.
1.3. Ứng dụng trong y học
1.3.1. về cấu tạo cơ thể và sinh lý
Âm: tạng,
kinh âm, huyết, bụng, trong, dưới v.v...
Dương: phủ,
kinh dương, khí, lưng, ngoài, trên v.v...
- Tạng thuộc
âm, do tính chất trong âm có dương nên còn phân ra phế âm, phế khí; thận âm, thận
dương; can huyết, can khí; tâm huyết, tâm khí. Phủ thuộc dương như vì trong
dương có âm nên có vị âm và vị hoả...
- Vật chất
dinh dưõng thuộc âm, cơ năng hoạt động thuộc dương.
1.3.2. Về quá trình phát sinh và phát triển của bệnh tật
a. Bệnh tật phát sinh ra do sự mất thăng bằng
về âm dương trong cơ thể được biểu hiện bằng thiên thắng hay thiên suy:
- Thiên thắng:
dương thắng gây chứng nhiệt: sốt, mạch nhanh, khát nước, táo, nước tiểu đỏ; âm
thắng gây chứng hàn: người lạnh, tay chân lạnh, mạch trầm, ỉa lỏng nước tiểu
trong v.v...
- Thiên suy:
dương hư như các trường hợp não suy, hội chứng hưng phấn thần kinh giảm; âm hư:
như mất nước, điện giải, hội chứng ức chế thần kinh giảm.
b. Trong quá trình phát triển của bệnh,
tính chất của bênh còn chuyến hoá lẫn nhau giữa hai mặt âm dương. Bệnh ở phần
dương ảnh hưỏng tối phần âm (dương thắng tắc âm bệnh). Thí dụ sốt cao kéo dài sẽ
gây mất nước. Bệnh ở phần âm ảnh hưởng tới phần dương (âm thắng tắc dương bệnh).
Thí dụ ỉa lỏng, nôn mửa kéo dài mất nước, điện giải làm nhiễm độc thần kinh,
gây sốt, co giật thậm chí gây truỵ mạch (thoát dương)
c. Sự mất thăng bằng của âm dương gây ra
những chứng bệnh ở những vị trí khác nhau của cơ thể tuỳ theo vị trí đó ở phần
âm hay dương.
Dương thịnh
sinh ngoại nhiệt: sốt, người và tay chân nóng, vì phần dương của cơ thể thuộc
biểu, thuộc nhiệt.
Âm thịnh
sinh nội hàn: ỉa chảy, người sợ lạnh, nước tiểu trong dài vì phần âm thuộc lý
thuộc hàn.
Âm hư sinh nội
nhiệt: như mất nước, tân dịch giảm gây chứng khát nước, họng khô, táo, nước tiểu
đỏ v.v...
Dương hư
sinh ngoại hàn: sợ lạnh, tay chân lạnh vì phần dương khí ở ngoài bị giảm sút.
1.3.3. Về chẩn đoán bệnh tật
a. Dựa vào 4 phương pháp khám bệnh: nhìn
(vọng), nghe (văn), hỏi (vấn) sờ nắn, xem mạch (thiết) để khai thác các triệu
chứng thuộc hàn hay nhiệt, hư hay thực của các tạng phủ kinh lạc.
b. Dựa vào 8 cương lĩnh để đánh giá vị trí
nông sâu của bệnh, tính chất của bệnh, trạng thái người bệnh và xu thế chung nhất
của bệnh tật (biểu lý, hư thực, hàn nhiệt và âm dương) trong đó âm và dương là
2 cương lĩnh tổng quát nhất gọi là tổng cương: thường bệnh ở biểu, thực, nhiệt
thuộc dương; bệnh ở lý, hư, hàn thuộc âm.
c. Dựa vào tứ chẩn để khai thác triệu chứng
và căn cứ vào bát cương bệnh tật được quy thành các hội chứng thiên thắng hay
thiên suy về âm dương của các tạng phủ, kinh lạc v.v...
1.3.4. Về chữa bệnh các phương pháp chữa bệnh
a. Chữa bệnh là điều hoà lại sự mất thăng
bằng về âm dương của cơ thể tuỳ theo tình trạng hư thực, hàn, nhiệt của bệnh bằng
các phương pháp khác nhau: thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công v.v...
b. Về thuốc được chia làm hai loại:
Thuốc lạnh,
mát (hàn, lương) thuộc âm để chữa bệnh nhiệt thuộc dương.
Thuôc nóng, ấm
(nhiệt, ôn) thuộc dương để chữa bệnh hàn thuộc âm.
c. Về châm cứu:
Bệnh nhiệt dùng châm, bệnh hàn dùng
cứu; bệnh hư thì bổ, bệnh thực thì tả.
Bệnh thuộc tạng
(thuộc âm) thì dùng các huyệt Du sau lưng (thuộc dương); bệnh thuộc phủ (thuộc
dương) thì dùng các huyệt Mộ ở ngực, bụng (thuộc âm), theo nguyên tắc:
"theo dương dẫn âm, theo âm dẫn dương”