Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

1.4. Xem mạch và sờ nắn (Thiết chẩn)



1.4.1. Xem mạch

a. Mục đích của xem mạch để biết được tình trạng thịnh suy của các tạng phủ, vị trí nông sâu, tính chất hàn nhiệt của bệnh tật.

b. Nơi xem mạch: tại động mạch quay ở tay, động mạch đùi, động mạch chày sau, động mạch mu chân, động mạch thái dương, nhưng phổ biên hơn cả là động mạch quay vị trí ở thốn khẩu.

Ở thốn khẩu nơi động mạch quay đi qua, nơi xem mạch được chia làm ba bộ: thốn, quan, xích. Bộ quan tương ứng với mỏm trâm quay kéo ngang, bộ thốn ở dưới và bộ xích ở trên bộ quan.

Tay phải thuộc khí, tay trái thuộc huyết và sơ đồ vị trí các tạng phủ tương ứng với các bộ như sau: 
Bộ
Tay trái
Tay phải
Thn
Tâm-tiu trưng
Phế-đại trường
Quan
Can-đởm
Tỳ-vị
Xích
Thận âm-bàng quang
Thận dương-tam tiêu


c. Cách xem mạch

- Người bệnh để ngửa bàn tay, thầy thuốc dùng ba ngón tay trỏ, giữa, nhẫn đặt vào mạch: ngón giữa bộ quan, ngón trỏ bộ thốn và ngón nhẫn bộ xích; tuỳ theo người cao thấp, nhỏ hay lớn mà các ngón tay đặt thưa ra hay khít lại. Tay phải của thầy thuốc thì xem tay trái của bệnh nhân và ngược lại tay trái của thầy thuốc xem tay phải của bệnh nhân.

- Người bệnh nên nghỉ ngơi 15 phút trước khi xem mạch, nằm hay ngồi thoải mái, chẩn mạch vào buổi sáng, lúc chưa ăn gì là tốt nhất. Thầy thuốc phải bình tĩnh, nhẹ nhàng, tập trung tư tưởng, chú ý cảm giác đầu các ngón tay.

Có ba mức độ ấn tay: ấn nhẹ đã thấy mạch đập (thượng án) là mạch phù, ấn vừa phải (trung án) và ấn sâu sát xương thấy mạch đập (hạ án) là mạch trầm.

- Xem mạch có hai loại: xem chung cả ba bộ (tổng khán) để nhận định tình hình chung, cách này được dùng thông thường nhất; xem. từng bộ vị (vi khán, đơn khán) để đánh giá tình hình từng tạng phủ. Thường phối hợp cả hai cách xem: tổng khán trước rồi đơn khán sau.

d. Các hiện tượng về mạch

• Mạch bình thường

Mạch bình thường là mạch có đập ở cả ba bộ, không phù không trầm, người lớn 70-80 lần đập trong một phút, hoà hoãn có lực, đi lại điều hoà.

Người xưa nói mạch bình thường là mạch có vị khí, có thần và có gốc."Vị khí là gốc của con người" nên mạch có vị khí thì hoà hoãn, điều hoà; còn vị khí là mạch thuận, không còn vị khí là mạch nghịch, dùng để đánh giá tiên lượng của bệnh; mạch có thần là mạch có lực, thận khí là gốc của con người biểu hiện ở hai mạch xích, mạch bình thường là mạch xích có lực đó là gốc của mạch; khi có bệnh mạch quan, thốn mất mà mạch xích còn thì bệnh tình chưa nguy hiểm.

Xem mạch bình thường có quan hệ mật thiết với thời tiết, khí hậu, tuổi tác, giới, thể chất và tình trạng tinh thần con người, trẻ em thường mạch đập 120-140 lần/phút, 6 tuổi 90-110 lần/phút; thanh niên người khoẻ mạnh mạch đi có lực; người già, người yếu mạch đập yếu, mạch của phụ nữ thì yếu hơn mạch nam giới, người cao lớn thì mạch dài hơn, người thấp thì mạch ngắn, người gầy thì mạch hơi phù, người béo thì mạch hơi trầm. Thời tiết khí hậu cũng ảnh hưởng đến mạch: mùa xuân mạch hơi huyền, mùa hạ mạch hơi hồng, mùa thu mạch hơi phù, mùa đông mạch hơi trầm.

• Mạch khi có bệnh

Khi có bệnh, mạch có thể thay đổi vị trí nông sâu, về tốc độ nhanh chậm, về cường độ có lực hay không có lực, có quy luật hay không theo quy luật. Có những loại mạch kết hợp cả mấy mặt trên gọi là kiêm mạch.

Có nhiều sách ghi 28 loại mạch. Tài liệu này chỉ nêu 19 loại mạch hay gặp trên lâm sàng:

• Theo vị trí nông sâu của mạch.

• Mạch phù: sờ nhẹ tay thấy mạch ngay, đè xuống hơi giảm mà không rỗng.

Chủ bệnh: bệnh ở biểu. Có thể thấy:

- Phù hữu lực: biểu thực; phù sác, biểu nhiệt

- Phù vô lực: hư chứng thường do âm hư (nên hư dương phù ra ngoài)

• Mạch trầm: ấn mạnh tay mới thấy mạch đập.

Chủ bệnh: bệnh thuộc lý: trầm hữu lực là lý thực, trầm vô lực là lý hư.

• Theo tốc độ của mạch:

• Mạch sác: Mạch đập nhanh trên 90 lần 1 phút.

Chủ bệnh: bệnh thuộc nhiệt: mạch sác hữu lực là thực nhiệt, sác vô lực là hư nhiệt, mạch phù sác là biểu nhiệt.

• Mạch trì: mạch đập chậm dưới 60 lần 1 phút.

Chủ bệnh: chứng hàn: mạch trì hữu lực là thực chứng do bị lạnh; mạch trì vô lực thuộc chứng lý hàn (dương hư).

• Theo cường độ của mạch:

• Mạch hư: cả 3 bộ mạch không có lực, ấn thấy rỗng, gọi là mạch vô lực.

Chủ bệnh: thuộc chứng hư do khí huyết hư.

• Mạch thực: cả 3 mạch đều có lưc, gọi là mạch hữu lực.

Chủ bệnh: thực chứng, do tà khí thực mà chính khí chưa suy.

• Mạch hoạt: mạch đi lại lưu lợi, trơn như hòn bi lăn trong đĩa.

Chủ bệnh: có đàm, thực trệ, thực nhiệt (tà khí ủng trệ). Phụ nữ có thai mạch cũng hoạt.

• Mạch sáp: mạch đi khó khăn, không lưu lợi, sáp, sít.

Chủ bệnh: tinh hao, thiếu máu ,khí trệ, huyết ứ (không nhu nhuận cân mạch).

• Mạch hồng: mạch đi cuồn cuộn như sóng, đến mạnh đi nhẹ.

Chủ bệnh: nhiệt thịnh, mạch hồng còn có thể thấy trong trường hợp do nhiệt làm mất nước gây âm hư và hư dương vượt ra ngoài.

• Mạch đại (đại là to):

Chủ bệnh: mạch đại có lực là tà khí thịnh. Mạch đại không có lực là hoả bốc mà gây âm hư, nên hư dương bốc ra ngoài, cần phân biệt một loại mạch đại nữa thuộc các mạch không có quy luật.

• Mạch tế: (còn gọi là mạch tiểu) mạch nhỏ nhưng còn bắt được.

Chủ bệnh: do âm hư, huyết hư là chính, có thể do thấp sinh ra.

• Mạch vi: mạch rất nhỏ, rất yếu, khó bắt, có lúc không thấy, khó đếm mạch.

Chủ bệnh:  âm, dương, khí huyết đều hư, chứng thoát dương (truỵ mạch, choáng).

• Theo biên độ của mạch

• Mạch nhu: mạch đi phù, nhỏ mềm.

Chủ bệnh: thuộc chứng hư (khí, huyết âm, thận hư, tinh kém, tuỷ kiệt).

• Mạch huyền: mạch đi ngay thẳng mà dài, cứng như sợi dây đàn, dây cung.

Chủ bệnh: các bệnh thuộc can đởm, sốt rét, đau đớn, đàm ẩm. Mạch huyền sác: thực nhiệt; huyền trì, hàn chứng; huyền hoạt: đàm ẩm; huyền khẩn, đau do ứ huyết.

• Mạch khẩn: mạch đi khẩn trương có lực giống như dây thừng vặn xoắn.

Chủ bệnh: chứng hàn, đau đớn, ứ đọng đồ ăn.

• Mạch khâu: mạch phù, nhưng rỗng bên trong như dọc hành.

Chủ bệnh: mất máu, mất nước (thương âm).

• Các mạch không theo quy luật

• Mạch xúc: mạch nhanh cấp, có lúc dừng lại không không có quy luật.

Chủ bệnh: mạch xúc hữu lực: dương thịnh, thực nhiệt, khí huyết, đàm ẩm, thức án trở trệ

• Mạch tế xúc vô lực: là chứng hư thoát.

• Mạch kết: mạch đến chậm có lúc dừng lại không có quy luật.

Chủ bệnh: âm thịnh, khí hết. Hàn đàm, ứ huyết, khí uất không điều hoà thấy mạch kết.

• Mạch đợi: mạch nửa chừng dừng lại có quy luật nhất định.

 Chủ bệnh: khí huyết suy nhược, phong đau đớn



Kiêm mạch và chủ bệnh
Thứ tư
Các loi mach
Chủ bệnh
1
Phù khẩn
Biểu hàn, đau khớp do phong
2
Phù hoãn
Chứng biểu hàn có ra mồ hôi
3
Phù sác
Biểu nhiệt, phong nhiệt
4
Phù hoạt
Phong đàm, biu chứng kèm thêm đàm thấp
5
Trầm trì
Lý hàn
6
Trầm khẩn
Lý hàn,đau
7
Huyền trì
Hàn gây đau kinh mạch can
8
Huyền khẩn
Hàn gây đau, hàn ứ trệ ở kinh mạch can
9
Trầm sác
Lý nhiệt
10
Huyền sác
Can nhiệt, can hoả
11
Trầm hoạt
Đàm ẩm, thực tích
12
Trầm huyền
Can uất khí trệ, chứng đau
13
Hồng sác
Nhiệt thịnh ở khí phận
14
Hoạt sác
Đàm nhiệt, đàm hoả
15
Trầm sáp
huyết
16
Trầm tế
Lý hư, khí huyết hư, âm hư
17
Trầm tế sác
Âm hư, huyết hư sinh nội nhiệt
18
Huyền tê
Can thận âm hư, âm hư can uất
19
Tế sáp
Huyết hư kèm ứ huyết
20
Nhu hoãn
Bệnh ở t vị, bệnh mạn tính


1.4.2. Sờ nắn

Sờ nắn để xem vị trí và tính chất của bệnh tật, thường xem lại tại da thịt, tay chân, và bụng.

a. Xem phần da thịt: cần chú trọng các tính chất sau:

• Hàn nhiệt:

- Nóng ở ngoài da, ấn sâu vào giảm: biểu nhiệt.

- Ở ngoài da nóng vừa, càng ấn càng thấy nóng: lý nhiệt.

- Lòng bàn tay nóng, cảm thấy da nóng bừng nhưng không sốt do hư nhiệt (âm hư hoả vượng).

• Khô, nhuận:

- Da nhuận trơn, tân dịch chưa bị tổn thương.

- Da khô táo: tân dịch giảm, ứ huyết.

• Phù: ấn manh vết lõm còn là thuỷ thũng, vết lõm nổi đầy ngay là khí thũng.

• Mụn, nhọt: sưng, không nóng: âm thư (áp xe lạnh), sưng, nóng, đỏ, đau: dương thư (áp xe nóng).

b. Sờ tay chân: chủ yếu xem về hàn nhiệt

- Tay chân lạnh, sợ lạnh là dương hư.

- Tay chân đều nóng nhiều là nhiệt thịnh.

- Nóng ở mu bàn tay là do biểu nhiệt.

c. Xem bụng (phúc chẩn)

Tuỳ vị trí để xem tạng phủ có bệnh cần chú trọng đến cơn đau, ứ trệ của khí huyết, hư thực của bệnh tình.

- Thiện án (thích xoa bóp) thuộc hư, cự án (không thích xoa bóp) thuộc thực.

- Bụng có khối, rắn, đau, không di chuyển thường là khối giun, ứ huyết; lúc có lúc tan, ấn vào không thấy hình thể, không ở một nơi nhất định thường do khí trệ.

Lưu trữ Blog