1.4.1. Xem mạch
a. Mục đích của xem mạch để biết được tình trạng thịnh
suy của các tạng phủ, vị trí nông sâu, tính chất hàn nhiệt của bệnh tật.
b. Nơi xem mạch: tại động mạch quay ở tay, động mạch đùi,
động mạch chày sau, động mạch mu chân, động mạch thái dương, nhưng phổ biên hơn
cả là động mạch quay vị trí ở thốn khẩu.
Ở thốn khẩu nơi động mạch quay đi qua, nơi xem mạch được
chia làm ba bộ: thốn, quan, xích. Bộ quan tương ứng với mỏm trâm quay kéo
ngang, bộ thốn ở dưới và bộ xích ở trên bộ quan.
Tay phải thuộc khí, tay trái thuộc huyết và sơ đồ vị trí
các tạng phủ tương ứng với các bộ như sau:
Bộ
|
Tay trái
|
Tay phải
|
Thốn
|
Tâm-tiểu trường
|
Phế-đại trường
|
Quan
|
Can-đởm
|
Tỳ-vị
|
Xích
|
Thận âm-bàng quang
|
Thận dương-tam tiêu
|
c. Cách
xem mạch
- Người bệnh để ngửa bàn tay, thầy thuốc dùng ba ngón tay
trỏ, giữa, nhẫn đặt vào mạch: ngón giữa bộ quan, ngón trỏ bộ thốn và ngón nhẫn
bộ xích; tuỳ theo người cao thấp, nhỏ hay lớn mà các ngón tay đặt thưa ra hay
khít lại. Tay phải của thầy thuốc thì xem tay trái của bệnh nhân và ngược lại
tay trái của thầy thuốc xem tay phải của bệnh nhân.
- Người bệnh nên nghỉ ngơi 15 phút trước khi xem mạch, nằm
hay ngồi thoải mái, chẩn mạch vào buổi sáng, lúc chưa ăn gì là tốt nhất. Thầy
thuốc phải bình tĩnh, nhẹ nhàng, tập trung tư tưởng, chú ý cảm giác đầu các
ngón tay.
Có ba mức độ ấn tay: ấn nhẹ đã thấy mạch đập (thượng án)
là mạch phù, ấn vừa phải (trung án) và ấn sâu sát xương thấy mạch đập (hạ án)
là mạch trầm.
- Xem mạch có hai loại: xem chung cả ba bộ (tổng khán) để
nhận định tình hình chung, cách này được dùng thông thường nhất; xem. từng bộ vị
(vi khán, đơn khán) để đánh giá tình hình từng tạng phủ. Thường phối hợp cả hai
cách xem: tổng khán trước rồi đơn khán sau.
d. Các hiện
tượng về mạch
• Mạch bình thường
Mạch bình thường là mạch có đập ở cả ba bộ, không phù
không trầm, người lớn 70-80 lần đập trong một phút, hoà hoãn có lực, đi lại điều
hoà.
Người xưa nói mạch bình thường là mạch có vị khí, có thần
và có gốc."Vị khí là gốc của con người" nên mạch có vị khí thì hoà
hoãn, điều hoà; còn vị khí là mạch thuận, không còn vị khí là mạch nghịch, dùng
để đánh giá tiên lượng của bệnh; mạch có thần là mạch có lực, thận khí là gốc của
con người biểu hiện ở hai mạch xích, mạch bình thường là mạch xích có lực đó là
gốc của mạch; khi có bệnh mạch quan, thốn mất mà mạch xích còn thì bệnh tình
chưa nguy hiểm.
Xem mạch bình thường có quan hệ mật thiết với thời tiết,
khí hậu, tuổi tác, giới, thể chất và tình trạng tinh thần con người, trẻ em thường
mạch đập 120-140 lần/phút, 6 tuổi 90-110 lần/phút; thanh niên người khoẻ mạnh mạch
đi có lực; người già, người yếu mạch đập yếu, mạch của phụ nữ thì yếu hơn mạch
nam giới, người cao lớn thì mạch dài hơn, người thấp thì mạch ngắn, người gầy
thì mạch hơi phù, người béo thì mạch hơi trầm. Thời tiết khí hậu cũng ảnh hưởng
đến mạch: mùa xuân mạch hơi huyền, mùa hạ mạch hơi hồng, mùa thu mạch hơi phù,
mùa đông mạch hơi trầm.
• Mạch khi có bệnh
Khi có bệnh, mạch có thể thay đổi vị trí nông sâu, về tốc
độ nhanh chậm, về cường độ có lực hay không có lực, có quy luật hay không theo
quy luật. Có những loại mạch kết hợp cả mấy mặt trên gọi là kiêm mạch.
Có nhiều sách ghi 28 loại mạch. Tài liệu này chỉ nêu 19
loại mạch hay gặp trên lâm sàng:
• Theo vị trí nông sâu của mạch.
• Mạch phù: sờ nhẹ tay thấy mạch ngay, đè xuống hơi giảm
mà không rỗng.
Chủ bệnh: bệnh ở biểu. Có thể thấy:
- Phù hữu lực: biểu thực; phù sác, biểu nhiệt
- Phù vô lực: hư chứng thường do âm hư (nên hư dương phù
ra ngoài)
• Mạch trầm: ấn mạnh tay mới thấy mạch đập.
Chủ bệnh: bệnh thuộc lý: trầm hữu lực là lý thực, trầm vô
lực là lý hư.
• Theo tốc độ của mạch:
• Mạch sác: Mạch đập nhanh trên 90 lần 1 phút.
Chủ bệnh: bệnh thuộc nhiệt: mạch sác hữu lực là thực nhiệt,
sác vô lực là hư nhiệt, mạch phù sác là biểu nhiệt.
• Mạch trì: mạch đập chậm dưới 60 lần 1 phút.
Chủ bệnh: chứng hàn: mạch trì hữu lực là thực chứng do bị
lạnh; mạch trì vô lực thuộc chứng lý hàn (dương hư).
• Theo cường độ của mạch:
• Mạch hư: cả 3 bộ mạch không có lực, ấn thấy rỗng, gọi
là mạch vô lực.
Chủ bệnh: thuộc chứng hư do khí huyết hư.
• Mạch thực: cả 3 mạch đều có lưc, gọi là mạch hữu lực.
Chủ bệnh: thực chứng, do tà khí thực mà chính khí chưa
suy.
• Mạch hoạt: mạch đi lại lưu lợi, trơn như hòn bi lăn
trong đĩa.
Chủ bệnh: có đàm, thực trệ, thực nhiệt (tà khí ủng trệ).
Phụ nữ có thai mạch cũng hoạt.
• Mạch sáp: mạch đi khó khăn, không lưu lợi, sáp, sít.
Chủ bệnh: tinh hao, thiếu máu ,khí trệ, huyết ứ (không
nhu nhuận cân mạch).
• Mạch hồng: mạch đi cuồn cuộn như sóng, đến mạnh đi nhẹ.
Chủ bệnh: nhiệt thịnh, mạch hồng còn có thể thấy trong
trường hợp do nhiệt làm mất nước gây âm hư và hư dương vượt ra ngoài.
• Mạch đại (đại là to):
Chủ bệnh: mạch đại có lực là tà khí thịnh. Mạch đại không
có lực là hoả bốc mà gây âm hư, nên hư dương bốc ra ngoài, cần phân biệt một loại
mạch đại nữa thuộc các mạch không có quy luật.
• Mạch tế: (còn gọi là mạch tiểu) mạch nhỏ nhưng còn bắt
được.
Chủ bệnh: do âm hư, huyết hư là chính, có thể do thấp
sinh ra.
• Mạch vi: mạch rất nhỏ, rất yếu, khó bắt, có lúc không
thấy, khó đếm mạch.
Chủ bệnh: âm,
dương, khí huyết đều hư, chứng thoát dương (truỵ mạch, choáng).
• Theo biên độ của mạch
• Mạch nhu: mạch đi phù, nhỏ mềm.
Chủ bệnh: thuộc chứng hư (khí, huyết âm, thận hư, tinh
kém, tuỷ kiệt).
• Mạch huyền: mạch đi ngay thẳng mà dài, cứng như sợi dây
đàn, dây cung.
Chủ bệnh: các bệnh thuộc can đởm, sốt rét, đau đớn, đàm ẩm.
Mạch huyền sác: thực nhiệt; huyền trì, hàn chứng; huyền hoạt: đàm ẩm; huyền khẩn,
đau do ứ huyết.
• Mạch khẩn: mạch đi khẩn trương có lực giống như dây thừng
vặn xoắn.
Chủ bệnh: chứng hàn, đau đớn, ứ đọng đồ ăn.
• Mạch khâu: mạch phù, nhưng rỗng bên trong như dọc hành.
Chủ bệnh: mất máu, mất nước (thương âm).
• Các mạch không theo quy luật
• Mạch xúc: mạch nhanh cấp, có lúc dừng lại không không
có quy luật.
Chủ bệnh: mạch xúc hữu lực: dương thịnh, thực nhiệt, khí
huyết, đàm ẩm, thức án trở trệ
• Mạch tế xúc vô lực: là chứng hư thoát.
• Mạch kết: mạch đến chậm có lúc dừng lại không có quy luật.
Chủ bệnh: âm thịnh, khí hết. Hàn đàm, ứ huyết, khí uất
không điều hoà thấy mạch kết.
• Mạch đợi: mạch nửa chừng dừng lại có quy luật nhất định.
Chủ bệnh: khí huyết
suy nhược, phong đau đớn
Kiêm mạch và chủ bệnh
|
||
Thứ tư
|
Các loại mach
|
Chủ bệnh
|
1
|
Phù khẩn
|
Biểu hàn, đau khớp do phong
|
2
|
Phù hoãn
|
Chứng biểu hàn có ra mồ hôi
|
3
|
Phù sác
|
Biểu nhiệt, phong nhiệt
|
4
|
Phù hoạt
|
Phong đàm, biểu chứng kèm thêm đàm thấp
|
5
|
Trầm trì
|
Lý hàn
|
6
|
Trầm khẩn
|
Lý hàn,đau
|
7
|
Huyền trì
|
Hàn gây đau ở
kinh mạch can
|
8
|
Huyền khẩn
|
Hàn gây đau, hàn ứ trệ ở kinh mạch can
|
9
|
Trầm sác
|
Lý nhiệt
|
10
|
Huyền sác
|
Can nhiệt, can hoả
|
11
|
Trầm hoạt
|
Đàm ẩm, thực tích
|
12
|
Trầm huyền
|
Can uất khí trệ, chứng đau
|
13
|
Hồng sác
|
Nhiệt thịnh ở khí phận
|
14
|
Hoạt sác
|
Đàm nhiệt, đàm hoả
|
15
|
Trầm sáp
|
Ứ huyết
|
16
|
Trầm tế
|
Lý hư, khí huyết hư, âm hư
|
17
|
Trầm tế sác
|
Âm hư, huyết hư sinh nội nhiệt
|
18
|
Huyền tê
|
Can thận âm hư, âm hư can uất
|
19
|
Tế sáp
|
Huyết hư kèm ứ huyết
|
20
|
Nhu hoãn
|
Bệnh ở tỳ vị, bệnh mạn tính
|
1.4.2. Sờ nắn
Sờ nắn để xem vị trí và tính chất của bệnh tật, thường
xem lại tại da thịt, tay chân, và bụng.
a. Xem phần da thịt: cần chú trọng các tính chất sau:
• Hàn nhiệt:
- Nóng ở ngoài da, ấn sâu vào giảm: biểu nhiệt.
- Ở ngoài da nóng vừa, càng ấn càng thấy nóng: lý nhiệt.
- Lòng bàn tay nóng, cảm thấy da nóng bừng nhưng không sốt
do hư nhiệt (âm hư hoả vượng).
• Khô, nhuận:
- Da nhuận trơn, tân dịch chưa bị tổn thương.
- Da khô táo: tân dịch giảm, ứ huyết.
• Phù: ấn manh vết lõm còn là thuỷ thũng, vết lõm nổi đầy
ngay là khí thũng.
• Mụn, nhọt: sưng, không nóng: âm thư (áp xe lạnh), sưng,
nóng, đỏ, đau: dương thư (áp xe nóng).
b. Sờ tay chân: chủ yếu xem về hàn nhiệt
- Tay chân lạnh, sợ lạnh là dương hư.
- Tay chân đều nóng nhiều là nhiệt thịnh.
- Nóng ở mu bàn tay là do biểu nhiệt.
c. Xem bụng
(phúc chẩn)
Tuỳ vị trí để xem tạng phủ có bệnh cần chú trọng đến cơn
đau, ứ trệ của khí huyết, hư thực của bệnh tình.
- Thiện án (thích xoa bóp) thuộc hư, cự án (không thích
xoa bóp) thuộc thực.
- Bụng có khối, rắn, đau, không di chuyển thường là khối
giun, ứ huyết; lúc có lúc tan, ấn vào không thấy hình thể, không ở một nơi nhất
định thường do khí trệ.