Trước tình hình phức tạp của các chứng bệnh, người thầy
thuốc cần phải dựa vào các cương lĩnh để đánh giá được vị trí, tính chất, trạng
thái và các xu thế chung của bệnh tật, giúp cho việc chẩn đoán nguyên nhân và đề
ra các phương pháp chữa bệnh chính xác.
Tám cương lĩnh gồm: ngoài và trong ( biểu lý ), hàn và
nhiệt; hư và thực, âm và dương. Âm dương là hai cương lĩnh tổng quát nhất gọi
là tổng cương.
2.1. Nội dung của
tám cương lĩnh
2.1.1. Biểu và lý
Biểu và lý là 2 cương lĩnh để tìm vị trí nông sâu của bệnh
tật, đánh giá tiên lượng và đề ra các phương pháp chữa bệnh thích hợp (bệnh ở
biểu thì phát tán, bệnh ở lý thì dùng phép thanh, hạ, ôn, bổ...).
a. Biểu chứng
Biểu là bệnh còn ở bên ngoài, ở nông, thường xuất hiện tại
gân, xương, cơ nhục, kinh lạc: bệnh cảm mạo và bệnh truyền nhiễm ở giai đoạn đầu
(YHCT gọi là phần vệ, YHHĐ giai đoạn viêm long, khởi phát).
Các biểu hiện lâm sàng: phát sốt, sợ gió, sợ lạnh rêu lưỡi
trắng mỏng mạch phù, đau đầu, đau mình, ngạt mũi, ho.
b. Lý chứng
Lý là bệnh ở bên trong, ở sâu thường bệnh thuộc các tạng:
bệnh truyền nhiễm ở các giai đoạn toàn phát và có biến chứng mất nước, mất điện
giải, chảy máu (YHCT gọi là phần dinh, khí, huyết).
Các biểu hiện lâm sàng: sốt cao, khát, mê sảng, chất lưỡi
đỏ, rêu lưỡi vàng, nước tiểu đỏ, nôn mửa, đau bụng, táo hay ỉa chảy, mạch trầm...
Bệnh ở lý có thể từ ngoài truyền vào, có thể tà khí trúng
ngay tạng phủ, do tình chí làm rối loạn hoạt động các tạng phủ.
Sư phân biệt giữa biểu chứng hay lý chứng thường chú ý đến
có sốt cao hay sốt kèm theo sợ lạnh, chất lưỡi đỏ hay nhạt, rêu lưỡi vàng hay
trắng, mạch phù hay mạch trầm...
Biểu và lý còn kết hợp với cương lĩnh khác như hư, thực
hàn, nhiệt và có sư lẫn lộn giữa biểu và lý (sẽ nói ở các mục sau).
2.1.2. Hàn và nhiệt
Hàn và nhiệt là hai cương lĩnh dùng để đánh giá tính chất
của bệnh giúp cho người thầy thuốc chẩn đoán các loại hình của bệnh và đề ra
phương pháp chữa bệnh hợp lý (bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc
hàn, nhiệt thì châm, hàn thì cứu).
a. Hàn chứng: Sợ lạnh, thích ấm, miệng nhạt không khát, sắc
mặt xanh trắng, tay chân lạnh, nước tiểu trong dài, đại tiện lỏng, chất lưỡi nhạt,
rêu trắng trơn ướt, mạch trầm trì.
b. Nhiệt chứng: sốt, thích mát, mặt đỏ, tay chân nóng, tiểu
tiện ngắn đỏ, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô, mạch sác.
Sự phân biệt hàn chứng và nhiệt chứng tập trung vào: sốt
sợ nóng hay lạnh, thích ấm hay mát, khát hay không khát, sắc mặt đỏ hay trắng
xanh, tay chân nóng hay lạnh, tiểu tiện đỏ ít hay trong dài, đại tiện táo khô
hay ỉa chảy:
Rêu lưỡi vàng hay trắng, mạch trì hay mạch sác.
Hàn chứng thuộc âm thịnh và nhiệt chứng thuộc dương thịnh,
hàn nhiệt còn phối hợp với các cương lĩnh khác, lẫn lộn với nhau, thực giả lẫn
lộn (sẽ nói ở các mục sau).
2.1.3. Hư và thực
Hư và thực là hai cương lĩnh dùng để đánh giá trạng thái
người bệnh và tác nhân gây bệnh, để người thầy thuốc thực hiện nguyên tắc chữa
bệnh, hư thì bổ, thực thì tả.
a. Hư chứng
Hư chứng biểu hiện chính khí suy nhược (hay không được đầy
đủ) và sự phản ứng của cơ thể đối với tác nhân gây bệnh giảm sút.
Chính khí của cơ thể có 4 mặt chính là âm, dương, khí,
huyết nên trên lâm sàng có những hiện tượng: âm hư, dương hư, khí hư và huyết
hư.
Những biểu hiện chính trên lâm sàng: tinh thần yếu đuối,
sắc mặt trắng bợt, người mệt mỏi, không có sức, gầy, hồi hộp, thở ngắn, tự ra mồ
hôi, hoặc ra mồ hôi trộm, đi tiểu luôn không tự chủ, chất lưỡi nhạt, mạch tế
nhược...
b. Thực chứng
Thực chứng là do cảm phải ngoại tà hay do khí trệ, huyết ứ,
đàm tích, ứ nước, giun sán gây bệnh.
Các biểu hiện chính trên lâm sàng: tiếng thở thô mạnh,
phiền táo, ngực, bụng đầy trướng, đau cự án, táo, rặn, bí tiểu tiện, đái buốt,
đái rắt, rêu lưỡi vàng, mạch thực hữu lực.
Sự phân biệt hư chứng và thực chứng căn cứ vào mấy điểm
sau: bệnh cũ hay bệnh mới, tiếng nói hơi thở nhỏ hay to, đau cự án hay thiện
án, chất lưỡi dày cộm hay mềm bệu, mạch vô lực hay hữu lực.
Hư thực còn phối hợp với các cương lĩnh khác, lẫn lộn với
nhau và thực giả lẫn lộn (sẽ nói ở các mục sau).
2.1.4. Âm dương
Âm dương là hai cương lĩnh tổng quát để đánh giá xu thế
chung của bệnh tật vì những hiện tượng hàn, nhiệt, hư, thực luôn phối hợp và lẫn
lộn với nhau.
Sự mất thăng bằng của âm dương biểu hiện bằng sự thiên thắng
(âm thịnh, dương thịnh) và sự thiên suy (âm hư, dương hư, vong âm, vong dương).
a. Âm chứng và dương chứng.
Âm chứng
|
Dương chứng
|
Người lạnh, tay chân lạnh, tinh thần mệt mỏi, thở nhỏ, thích ấm, không khát, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng,
nằm quay vào trong, mặt trắng, lưỡi nhạt, mạch trầm nhược
|
Tay chân ấm, dễ bị kích thích, thở to - thô, sợ nóng,
khát, tiểu tiện đỏ - đục - ít, đại tiện táo, nằm quay ra ngoài, mặt đỏ, mạch
hoạt sác, phù sác có lực.
|
Âm chứng thường bao gồm các chứng hư và hàn; dương chứng
gồm các chứng thực và nhiệt.
b. Âm hư
và dương hư
Âm hư do tân dịch, huyết không đầy đủ, phần dương trong
cơ thể nhân âm hư nổi lên sinh ra chứng hư nhiệt gọi là "âm hư sinh nội
nhiệt".
Dương hư do các công năng trong người bị giảm, dương khí
ra ngoài, phần vệ bị ảnh hưởng nên sinh chứng sợ lạnh, tay chân lạnh gọi là
"dương hư sinh ngoại hàn".
Âm hư
|
Dương hư
|
Triều nhiệt, nhức trong xương, ho khan. Họng khô, hai
gò má đỏ, ra mồ hôi trộm. Ngũ tâm phiền nhiệt, khát, vật vã, lưỡi đỏ rêu ít,
mạch tế sác.
|
Sợ lạnh, tay chân lạnh, ăn không tiêu, di tinh liệt
dương, đau lưng, mỏi gốì, rêu lưỡi trắng, chất lưỡi nhạt, ỉa chảy, tiểu tiện
trong dài, mạch nhược, vô lực.
|
c. Vong
âm và vong dương
Vong âm là hiện tượng mất nước do ra mồ hôi, ỉa chảy nhiều.
Vì âm, dương nương tựa vào nhau, nên sự mất nước đến giai đoạn nào đó gây ra
vong dương tức là choáng, truỵ mạch còn gọi là "thoát dương".
Chứng
|
Mồ hôi
|
Tay
chân
|
Lưỡi
|
Mạch
|
Các chứng khác
|
Vong âm
|
Nóng và mặn không dính
|
Ấm
|
Khô
|
Phù vô lực, mạch xích yếu
|
Khát, thích uống nước lạnh
|
Vong dương
|
Lạnh, vị nhạt dính
|
Lạnh
|
Nhuận
|
Phù sác vô lực rồi mạch vi muốn tuyệt
|
Không khát, thích uống nước nóng
|
2.2. Sự phối
hợp giữa các cương lĩnh
2.2.1. Biểu, lý
,hàn, nhiệt:
Gồm 4 chứng: biểu hàn, biểu nhiệt, lý hàn, lý nhiệt được
tóm tắt như sau:
Chứng
|
Biểu hiện lâm sàng
|
Bệnh
|
Biểu hàn
|
Sợ lạnh nhiều, sốt ít, đau người, không có mồ hôi, rêu
lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn
|
Cảm mạo phong hàn
|
Biểu nhiệt
|
Sợ lạnh ít, sốt nhiều,
miệng hơi khát, có mồ hôi, đầu lưỡi đỏ, mạch phù sác
|
Cảm mạo phong nhiệt, ôn bệnh ở phần vệ
|
Lý hàn
|
Người lạnh, tay chân lạnh, sắc mặt trắng xanh, không
khát, thích uống nước
nóng, ít nói, tiểu tiện
trong, đại tiện lỏng, rêu trắng, lưỡi nhạt, mạch trầm trì
|
Thận dương hư hàn, tỳ vị hư hàn
|
Lý nhiệt
|
Mặt đỏ, người nóng, miệng khô khát, thích nước lạnh,
phiền táo, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hồng sác
|
Nhiệt ở khí phận (hay nhiệt ở dương minh).
|
2.2.2. Biểu,
lý, hư, thực:
Gồm 4 chứng:
biểu hư, biểu thực, lý hư, lý
Chứng
|
Biểu hiện lâm sàng
|
Bệnh
|
Biểu hư
|
Tự ra mồ hôi, sợ lạnh, đau mình, rêu lưỡi trắng
mỏng, mạch phù hoãn
|
Cảm mạo phong hàn thể trúng phong
|
Biểu thực
|
Không có mồ hôi, sợ lạnh, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù
khẩn
|
Cảm mạo phong hàn thể thương hàn
|
Lý hư Lý thưc
|
Giống như phần hư thực trong nội dung của bát cương
|
2.3. Sự lẫn
lộn (thác tạp) giữa các cương lĩnh
2.3.1. Biểu lý lẫn
lộn:
Trên một người bệnh vừa có chứng bệnh ở biểu vừa có chứng
bệnh ở lý, còn gọi là "biểu lý đồng bệnh". Khi chữa bệnh phải vừa chữa
phần biểu, vừa chữa phần lý gọi là " biểu lý song giải".
Thí dụ: người bệnh sốt, sợ lạnh ( biểu chứng ) nhưng vật
vã khát nước ( lý chứng ) thì vừa giải biểu ( Ma hoàng, Quế chi ) vừa thanh lý
nhiệt sinh tân dịch ( Thạch cao ).
2.3.2. Hàn nhiệt lẫn
lộn
Trên một người bệnh, vừa có chứng hàn vừa có chứng nhiệt.
Có thể có những hình thức như sau: biểu hàn lý nhiệt, biểu nhiệt lý hàn, tạng
phủ này hàn tạng phủ kia nhiệt.
2.2.3. Hư thực lẫn
lộn
Chứng hư và chứng thực cùng xuất hiện: thí dụ trong bệnh
truyền nhiễm sốt cao, mạch nhanh, nước tiểu đỏ... là thực chứng, nhưng sốt làm
tân dịch bị mất gây táo, vật vã mê sảng (âm hư) là hư chứng.
Bệnh nhân tạng yếu (hư chứng), lại mắc thêm bệnh mới như
cảm mạo: sốt, đau mình, ngạt mũi (bệnh thực) gọi là hư kèm thêm thực (hư trung
hiệp thực).
2.4. Hiện
tượng chân giả
Hiện tượng chân giả là hiện tượng triệu chứng của bệnh xuất
hiện không phù hợp với bản chất, với nguyên nhân của bệnh.
Có hai hiện tượng sau đây:
2.4.1. Chân hàn giả
nhiệt:
Do bên trong chứng âm hàn mạnh bức dương ra ngoài, hay là
sự chuyến hoá "hàn cực sinh nhiệt" của bệnh tật.
Thí dụ: chứng ỉa chảy do lạnh (chân hàn) nhưng do mất nước,
mất điện giải gây khát, vật vã, miệng khô, mình nóng, thậm chí sốt cao, co giật
(giả nhiệt).
Chân hàn
|
Giả nhiệt
|
Đau bụng, ỉa chảy, nôn mửa, tay chân lạnh, mồ hôi tự chảy
ra, nói nhỏ, ăn ít, đầy bụng, tiểu tiện trong trắng, chất lưỡi mềm bệu, rêu
lưỡi trơn, mạch trầm vi muốn tuyệt.
|
Phiền táo, khát nước (giả nhiệt) nhưng không muốn uống
(chân hàn); miệng mũi có khi ra máu, khô, mắt đỏ, mình nóng (giả nhiệt) nhưng
ấn sâu không thấy nóng (chân hàn). Mạch phù sác (giả nhiệt) song ấn xuống
không có gì (chân hàn).
|
2.4.2. Chân nhiệt giả
hàn
Bên trong là nhiệt nhưng hàn bên ngoài, như trong bệnh
truyền nhiễm do độc gây truỵ mạch ngoại biên: tay chân lạnh, mạch vi (giả hàn).
Chân nhiệt
|
Giả nhiệt
|
Hơi thở thô và nóng, họng, khô miệng khô, rêu lưỡi vàng
đen, rất khát, nói sảng, bụng đầy trướng, ấn vào đau, tiểu tiện đỏ, đại tiện
táo.
|
Tay chân quyết lạnh (giả hàn) nhưng không muốn mặc áo
(chân nhiệt ở trong); mạch trầm trì (giả hàn) ấn xuống thấy mạch đập mạnh có
lực (chân nhiệt).
|
2.5. Hiện
tượng bán biểu bán lý
Có chứng bệnh không ở biểu mà cũng không ở lý gọi là giữa
biểu và lý hay bán biểu bán lý.
Trong sách Thương hàn luận, chứng bán biểu bán lý là thuộc
bệnh ở kinh thiếu dương ( thái dương là biểu, dương minh là lý ). Khi chữa bệnh
không thể dùng phương pháp giải biểu được (vì không phải ở biểu ), không thể
dùng phương pháp thanh, hạ được (vì không phải ở lý) mà phải dùng phương pháp
hoà giải gọi là hoà giải thiếu dương.
Các biểu hiện lâm sàng như sau: lúc nóng lúc lạnh (hàn
nhiệt vãng lai), ngực sườn đầy tức, miệng đắng, lợm giọng, buồn nôn, họng khô,
mắt hoa, mạch huyền...