Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

1.3. Hỏi (Vấn chẩn)

Hỏi người bệnh hoặc người nhà về các chứng trạng hiện tại, quá trình bệnh tật, quá trình chữa bệnh, nghề nghiệp, hoàn cảnh...


Tài liệu này chỉ nêu lên cách hỏi các chứng trạng hiện tại, còn các phần khác giống như làm bệnh án YHHĐ.

1.3.1. Hỏi về hàn nhiệt

Hỏi về hàn nhiệt tức là hỏi bệnh nhân có sợ lạnh, có phát sốt hay không, thời gian ngắn, dài và sự liên quan với các chứng trạng khác...

a.         Sợ lạnh:

-           Bệnh mới mắc mà sợ lạnh là do ngoại cảm phong hàn.

-           Bệnh lâu ngày, sợ lạnh kèm thêm tay chân lạnh là chứng dương hư, lý hàn; sợ lạnh ở lưng là thận dương hư, sợ lạnh ở tay chân là tỳ dương hư (tỳ vị hư hàn).

b.        Phát sốt

-           Phát sốt có quy luật hoặc sốt ngày càng cao gọi là triều nhiệt, trong ngực phiền nhiệt kèm thêm nóng lòng bàn tay bàn chân gọi là ngũ tâm phiền nhiệt; cảm giác nóng nhức trong xương gọi là cốt chưng lao nhiệt.

-           Sốt cao, miệng khát, đại tiện táo, nước tiểu đỏ, lưỡi đỏ, biểu hiện chứng lý, thực nhiệt. Sốt bệnh cũ, triều nhiệt, lòng bàn tay bàn chân nóng, nhức trong xương, gò má đỏ là do huyết hư, âm hư sinh nội nhiệt.

-           Bệnh mới mắc, vừa sợ lạnh vừa sốt là do ngoại cảm, sợ lạnh nhiều, sốt ít là biểu hàn, sốt nhiều, sợ lạnh ít là biểu nhiệt.

-           Lúc sốt lúc rét là hàn nhiệt vãng lai; rét nóng không có quy luật là chứng bán biểu bán lý thuộc chứng thiếu dương; rét nóng có quy luật thời gian là do sốt rét.

1.3.2. Mồ hôi

a.           mồ hôi và không có mồ hôi

-           Sợ lạnh, phát sốt có mồ hôi là chứng biểu hư, không có mồ hôi là biểu thực.

b.        Sốt cao ra mồ hôi nhiều, mạch hồng đại là lý nhiệt.

c.         Thời gian ra mồ hôi

-           Bình thường hay ra mồ hôi, lúc hoạt động mồ hôi càng ra nhiều, sau khi ra mồ hôi thấy lạnh gọi là chứng tự ra mồ hôi (tự hãn) do khí hư hay dương khí hư gây ra.

-           Ngủ ra mồ hôi, lúc tỉnh không ra gọi là chứng ra mồ hôi trộm (đạo hãn) do âm hư, hay khí âm đều hư gây ra.

d.        Tính chất mồ hôi

-           Mồ hôi vàng là thấp nhiệt, mồ hôi dính như dầu là tuyệt hãn (bệnh nặng). Ra hay không có mồ hôi nửa người là trúng phong. Toàn thân ra mồ hôi ra nhiều không dứt, chân tay lạnh, người lạnh là dương khí muốn tuyệt gọi là chứng thoát dương (choáng truỵ mạch).

1.3.3. Đầu, mình, ngực, bụng, các khớp xương

a.         Vị trí

-           Đau đầu: đau đầu vùng chẩm lan xuống gáy vai là bệnh thuộc kinh dương minh; đau 1/2 bên đầu là bệnh thuộc kinh thiếu dương; đau đầu vùng đỉnh là bệnh thuộc kinh quyết âm.

-           Đau ngực: sốt, ho suyễn, khạc ra đờm, ho ra máu thuộc phế nhiệt; đau ngực đã lâu hay tái phát là do khí, huyết, đàm ẩm gây bế tắc. Ngực sườn đầy tức mà đau là thiếu dương bệnh hoặc can khí uất kết .

-           Vùng thượng vị: trướng đầy mà đau: đau dạ dày (vị quản thống)

-           Đau vùng bụng dưới: (tương đương với buồng trứng): can khí uất kết, kinh mạch không thông hay gặp ở các bệnh phụ khoa.

-           Đau lưng: lưng là phủ của thận, thường thận hư gây đau lưng, còn có thể do phong hàn, hàn thấp hoặc ứ huyết gây đau lưng cấp.

b.        Tính chất

Đau di chuyển, tê dại và ngứa là do phong; nặng nề di dịch khó khăn là do thấp; đau nhức mà sợ lạnh, trời lạnh thì đau tăng thuộc chứng hàn; sốt, sưng nóng, đỏ đau thuộc nhiệt; đau trướng hoặc đau liên miên là do khí trệ; ( đau dữ dội một nơi là do huyết ứ).

c.         Mức độ và thời gian đau:

Bệnh mới mắc, trướng đầy nhiều, đau không dứt, cự án thuộc chứng thực; bệnh cũ, trướng đầy không nhiều, lúc đau lúc không, trời lạnh thì đau, thiện án thường thuộc chứng hư.

1.3.4. Ăn uống và khẩu vị

a.         Miệng khát và uống nước

            Miệng khát uống nước nhiều, thích uống nước lạnh là do thực nhiệt; miệng khát mà không thích uống thuộc chứng thấp, hư hàn; nôn mửa ỉa chảy khát nước là tân dịch bị tôtn thương.

            Miệng không khát, không thích uống là do hàn.

b.        Thèm ăn và ăn

-           Bệnh mới không thèm ăn là do thức ăn tích trệ, ngoại cảm kiêm thấp khí trệ ở tỳ vị. Bệnh cũ ăn kém là do tỳ vị hư nhược, thận dương hư.

-           Ăn nhiều, mau đói là chứng vị hoả mạnh. Đói mà không muôn ăn là vị âm hư.

-           Khi có bệnh mà ăn được, là vị khí chưa hao, tiên lượng tốt. Bệnh nặng ăn nhiều lên là vị khí hồi phục dần, triển vọng chữa bệnh tốt.

c.         Khẩu vị:

-           Miệng đắng thuộc nhiệt, thường do nhiệt ở can, đởm; miệng chua hôi là trường vị tích nhiệt; miệng hôi là do vị hoả đốt bên trong; miệng nhạt do đàm trọc, hư chứng; miệng ngọt do thấp nhiệt ở tỳ; miệng mặn là do thận hư.

1.3.5. Ngủ

Mất ngủ, hồi hộp, sợ hãi, hay mê là do tâm huyết không đầy đủ; người vật vã, trằn trọc, lâu không ngủ thuộc chứng âm hư hoả vượng; miệng đắng, nôn ra đờm, hồi hộp, vật vã, không ngủ được thường do đàm hoả nhiễu tâm; tiêu hoả không tốt cũng gây mất ngủ.

1.3.6. Đại tiện và tiểu tiện

a.         Đại tiện

-           Đại tiện táo: đại tiện táo thể hiện bằng số lần đi ngoài giảm, đi khó, lượng phân ít, khô cứng. Bệnh mới, táo, bụng đầy trướng thuộc thực nhiệt; bệnh cũ, người già, phụ nữ có thai, sau khi đẻ bị táo là do tân dịch giảm, khí hư, âm hư, huyết hư.

-           Đại tiện lỏng: phân đặc mùi thối do lý nhiệt, tích trệ. Phân loãng ít thối do tỳ vị hư hàn. Ỉa lỏng như nước, tiểu tiện ít là do thuỷ thấp tràn xuống dưới, ỉa chảy lúc sáng sớm (ngũ canh tả) là tỳ thận dương hư.

-           Đại tiện trước rắn sau loãng là tỳ vị hư nhược.

-           Đại tiện ra máu mũi, mót rặn là bệnh lỵ do thấp nhiệt ở đại trường.

b.        Tiểu tiện: hỏi về màu sắc, số lượng và số lần đi tiểu.

-           Tiểu tiện ít, màu vàng, nóng thuộc thực nhiệt; tiểu tiện ít sau khi ra mồ hôi, ỉa chảy, nôn mửa là do tân dịch bị tổn thương, thuỷ thấp đình lại thì nước tiểu ít.

-           Tiểu tiện nhiều, trong dài là thuộc hư hàn, còn gặp ở chứng tiêu khát (đái tháo).

-           Đi tiểu tiện luôn, mót đái, đái rắt, đau là do thấp nhiệt ở bàng quang; người già đi tiểu luôn, mót đái do thận khí hư.

-           Đái không tự chủ, đái dầm là do thận khí hư. Trẻ em đái dầm do sự phát dục chưa đủ hay thói xấu tạo thành.

1.3.7. Kinh nguyệt khí hư (đới hạ)

Phụ khoa nghiên cứu kỹ sinh lý, bệnh lý, về bốn vấn đề: kinh nguyệt, khí hư, có thai, sau khi đẻ (sẽ học ở chương bệnh phụ khoa). Để phục vụ cho yêu cầu chẩn đoán chung đối với một người bệnh nữ, phần này chỉ nêu sơ lược vấn đề kinh nguyệt và khí hư.

a.         Kinh nguyệt: hỏi về chu kỳ, lượng kinh, thời gian hành kinh, màu sắc, tính chất.

Bình thường chu kỳ kinh nguyệt khoảng 28 ngày, thời gian kéo dài 3-4 ngày có khi 5-6 ngày, lượng kinh bình thường, màu kinh đỏ, không có cục.

Kinh nguyệt trước kỳ, màu kinh đỏ tươi, số " lượng nhiều thường do huyết nhiệt; sắc nhạt lượng ít, đau bụng sau khi hành kinh do huyết không đầy đủ.

Kinh nguyệt sau kỳ, sắc thẫm có cục, đau bụng trước khi hành kinh thuộc hàn, ứ huyết; sắc nhạt, kinh ít do huyết hư.

Rong kinh, rong huyết, sắc tím đen, thành khối, bụng đau thuộc nhiệt; nhạt màu có cục, đau bụng do can thận hư, hoặc tỳ hư.

b.        Khí hư (đới hạ): hỏi về màu sắc, mùi

Khí hư trắng lượng nhiều do tỳ, thận hư hàn. Khí hư nhiều, màu vàng, dính hôi là do thấp nhiệt.

Lưu trữ Blog