a. Hư chứng
• Phế khí hư:
Phế hư do ho
lâu ngày tổn thương phế khí, do tỳ khí hư không vận hoá đồ tinh vi của thuỷ cốc
lên làm phế khí hư. Ngoài ra tâm, thận, khí hư cũng ảnh hưởng đến phế.
- Biểu hiện
lâm sàng: ho không có sức, thở ngắn, ngại nói, tiếng nói nhỏ, người mệt vô lực,
tự ra mồ hôi, sắc mặt trắng bệch, chất lưỡi nhạt, mạch hư nhược.
- Phương
pháp chữa: bổ ích phế khí.
• Phế âm hư:
Phế âm hư do
mắc bệnh lâu ngày, hay bệnh mới mắc làm tổn thương đến phế âm. Phế âm hư có hai
mức độ: phế âm hư và âm hư hoả vượng.
- Biểu hiện
lâm sàng: nếu phế âm hư ho ngày càng nặng, không có đờm, hoặc đờm ít mà dính, họng
khô ngứa, người gầy, chất lưỡi hơi đỏ, ít tân dịch, mạch tế vô lực. Nếu âm hư
hoả vượng: thêm các chứng ho ra máu, miệng khô khát, chiều phát sốt, ra mồ hôi
trộm, chất lưỡi đỏ, mạch tế sác.
- Phương
pháp chữa: tư âm dưỡng phế (phế âm hư), tư âm giáng hỏa (âm hư hoả vượng).
b. Thực chứng:
• Phong hàn thúc phế: do phong hàn làm phế khí không tuyên
giáng.
- Biểu hiện
lâm sàng: ho tiếng ho mạnh, có khi suyễn, đờm loãng trắng dễ khạc, miệng không
khát, chảy nước mũi, sợ lạnh, đau mình, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn.
- Phương
pháp chữa: tán hàn tuyên phế.
• Phong nhiệt phạm phế: do phong nhiệt làm phế khí không
tuyên giáng.
- Biểu hiện
lâm sàng: ho đờm vàng dính khó khạc, miệng khô, thích uống, nước mũi đục, đau họng,
ho khạc ra đờm dính máu, đầu lưỡi đỏ, mạch phù sác.
- Phương
pháp chữa: thanh nhiệt tuyên phế.
• Đàm trọc làm trở ngại phế: do đàm thấp làm phế mất sự tuyên
giáng.
- Biểu hiện
lâm sàng: ho đờm nhiều, sắc trắng dễ khạc, thấy khò khè tức ngực, rêu lưỡi vàng
trắng dầy, mạch hoạt.
Nếu là đàm
thấp thì bệnh nhân sợ lạnh, đờm loãng, khi gặp lạnh bệnh càng tăng. Nếu ẩm tà
ngưng lại ở phế thấy xuất hiện các chứng ngực sườn đầy tức ho, đau ngực, rêu lưỡi
trắng mỏng.
- Phương
pháp chữa: táo thấp hoá đàm.