2.5.1. Địnhh nghĩa
Ôn pháp là
dùng các thuốc ấm và nóng tạo thành bài thuốc để chữa các chứng hư hàn thuộc lý
trong cơ thể. cần phân biệt với chứng biểu hàn như cảm mạo phong hàn chữa bằng
phép hãn đã nêu ơ trên.
2.5.2. Ứng dụng lâm sàng
Dùng phép ôn
để chữa các chứng bệnh sau
Bệnh đau dạ
dày, viêm đại tràng, ỉa chảy mạn tính và các rối loạn tiêu hoá khác có các triệu
chứng: sợ lạnh, tay chân lạnh, đau bụng, chậm tiêu, ỉa chảy, nôn mửa. mạch trầm
nhược, nhu hoãn gọi là chứng tỳ vị hư hàn, dùng phép ôn trung trừ hàn để chữa
như bài Lý trung hòa (Nhân sâm, Can khương, Bạch truật, Cam thảo).
Bệnh ỉa chảy
người già, bệnh viêm thận mạn tính gây phù thũng, bệnh viêm đại tràng mạn tính
có các triệu chứng người lạnh, tay chân lạnh, ỉa chảy lưng lạnh, mỏi gối, phù
thũng, mạch trầm nhược, gọi là chứng thận dương hư (hay mệnh môn hoả suy) không
ôn dưỡng được tỳ dương dùng phương pháp ôn thận tỳ dương với các bài như Chân
vũ thang (Phụ tử, Phục linh, Bạch truật, Sinh khương), bài Tứ thần hoàn (Phá cố
chỉ, Ngũ vị tử, Nhục đậu khấu, Ngô thù du, Sinh khương, Đại táo).
Chứng truỵ mạch,
choáng do mất máu, mất nước, điện giải gây các chứng: sợ lạnh, ỉa chảy, tay
chân quyết lạnh, ra mồ hôi dầm đìa tinh thần mệt mỏi. mạch vi muốn tuyệt gọi là
chứng thoát dương, hay vong dương dùng phương pháp hồi dương cứu nghịch với các
bài thuốc như Tứ nghịch thang (Phụ tử, Can khương, Cam thảo).
2.5.3. Chú ý
Không được
dùng phép ôn trong trường hợp truỵ mạch ngoại biên do nhiễm trùng nhiễm độc gọi
là chứng chân nhiệt giả hàn.
Người âm hư,
huyết hư do thiếu tân dịch không dùng phép ôn.
Nhũng người
có chứng nhiệt (hư nhiệt, thực nhiệt) gây các chứng chảy máu không được dùng
phép ôn).