2.4.1. Định nghĩa
Hòa pháp là
phương pháp dùng các bài thuốc để chữa bệnh ngoại cảm thuộc bán biểu bán lý
(không phát hãn được) không phải ở biểu, không dùng phép thanh, hạ được vì
không phải ở lý) và chữa các bệnh gây ra do sự mất điều hòa khí huyết các tạng
phủ trong cơ thê.
2.4.2. Ứng dụng lâm sàng
Phép hòa được
dùng để chữa một số chứng bệnh sau:
a. Chứng cảm
mạo thuộc kinh thiếu dương (đởm): lúc nóng lúc rét, ngực sườn dầy tức, buồn
nôn, miệng đắng. Dùng bài Tiểu sài hồ thang (Sài hồ, Hoàng cầm, Sâm, Cam thảo,
Sinh khương, Bán hạ, Đại táo).
b. Bệnh sốt
rét (ngược tật) thường dùng bài Tiểu sài hồ thêm các vị thuốc: Thảo quả, Binh
lang, Thanh bì...
c. Chứng bệnh
do can tỳ bất hoà:
- Bệnh loét
dạ dày, tá tràng do can mộc khắc tỳ thổ.
- Bệnh ỉa chảy
mạn tính do thần kinh: dùng bài thuốc Thống tả yếu phương (Bạch truật, Bạch thược,
Trần bì, Phòng phong, Thăng ma).
d. Chứng thống
kinh, kinh nguyệt không đều, suy nhược thần kinh, hystena, có kèm theo nhũng
sang chấn tinh thần gây rối loạn thần kinh chức năng (YHCT gọi là can khí uất kết)
hay dùng bài Tiêu giao tán (Sài hồ, Đương quy. Bạch thược, Bạch truật, Bạch
linh, Cam thảo, Bạc hà, Sinh khương).
2.4.3. Chú ý
Không được
dùng phép hòa trong khi tà còn ở biếu hay đã vào lý.
Nếu tà khí vừa
ở bán biểu bán lý mà có một phần đã vào lý hoặc còn ở biểu thì phải phối hợp
thuốc. Như chứng thiếu dương mà có táo bón, không dùng bài Tiểu sài hồ mà dùng
bài Đại sài hồ thang (tức là bài Tiểu sài hồ bỏ Cam thảo, Sinh khương gia thêm,
Chỉ thực, Đại hoàng), chứng thiếu dương kèm thêm biểu chứng dùng bài Sài hồ quế
chi thang (bài Quế chi thang chữa biểu chứng và Sài hồ, Hoàng cầm, Bán hạ, Chỉ
thực để điều hòa thiếu dương).