Có 3 hội chứng:
khí hư, khí trệ và khí nghịch.
a. Khí hư:
Khí hư do cơ
năng hoạt động của cơ thể và nội tạng bị suy thoái hay gặp ở người có bệnh mạn
tính, người già yếu ở thời kỳ phục hồi sau khi mắc bệnh nặng.
Biểu hiện
lâm sàng: hơi thở ngắn, mệt mỏi không có sức, tự ra mồ hôi, ăn uống giảm sút,
lưỡi nhạt, mạch hư vô lực. Ngoài ra còn có các chứng bệnh do trương lực cơ giảm
gọi là khí hư hạ hãm: sa sinh dục, sa trực tràng, đái són...
Phương pháp
chữa: bổ khí, ích khí.
b. Khí trệ:
Khí trệ do
cơ năng hoạt động của cơ thể hay một bộ phận của cơ thể bị trở ngại, thường do
nguyên nhân tinh thần bị sang chấn, ăn uống không điều hoà, cảm phải ngoại tà.
Biểu hiện
lâm sàng: đầy trướng và đau, khí trệ ở ngực sườn gây đau ngực sườn, ở thượng vị
gây đau vùng thượng vị (vị quản thống), ở ruột gây đau bụng (phúc thống). Đặc
tính cơn đau do khí trệ là kèm thêm đầy trướng, trướng nặng hơn đau, đau lúc
nhiều lúc ít, vị trí không nhất định, ợ hơi trung tiện thì giảm đau. Vú căng
trướng, mót rặn cũng là do khí trệ.
Phương pháp
chữa: hành khí.
c. Khí nghịch
Khí nghịch
hay thấy ở phế và vị, có khi thấy ở can. Đàm và khí kết hợp làm phế khí không
giáng gây nghịch lên. Vị bị hàn, tích ẩm, ứ đọng đồ ăn. Can tình chí bị uất ức,
không điều đạt được.
Biểu hiện
lâm sàng: phế: ho, hen, khó thở tức ngực. Vị: nôn mửa, nấc, ợ hơi. Can: đau ngực
sườn, đau thượng vị, lúc sốt lúc rét. cần phân biệt chứng khí nghịch do thận hư
không nạp được phế khí thuộc chứng hư.
Phương pháp
chữa: giáng khí, thuận khí.