Thứ Năm, 13 tháng 11, 2014

1.1. Một số vấn đề của hoạt động thần kinh có liên quan tới việc giải thích cơ chế tác dụng châm cứu



1.1.1. Châm hay cứu là một kích thích gây ra một cung phản xạ mới

- Châm là một kích thích cơ giới, cứu là một kích thích về nhiệt, gây kích thích tại da, cơ.

- Tại nơi châm, cứu có những biến đổi: tổ chức tại nơi châm bị tổn thương sẽ tiết ra histamin, nhiệt độ ở da thay đổi, bạch cầu tập trung, phù nề tại chỗ, các phản xạ đột trục làm co giãn mạch máu...

Tất cả những kích thích trên tạo thành một kích thích chung của châm cứu, các luồng xung động của kích thích được truyền vào tuỷ lên não, từ não xung động chuyển tới cơ quan đáp ứng hình thành một cung phản xạ mới.

1.1.2. Hiện tượng chiếm ưu thế của Utomski

Theo nguyên lý của hiện tượng chiếm ưu thế của Utom ski thì trong cùng một thời gian ở một nơi nào đó của hệ thần kinh trung ương, có hai luồng xung động của hai kích thích đưa tới. Kích thích nào có luồng xung động mạnh hơn và liên tục hơn sẽ kéo các xung động của kích thích kia về nó và tiếp tới dập tắt kích thích kia.

Khi có bệnh, tổn thương tại các cơ quan (ổ viêm, loét...) là một kích thích, xung động được truyền vào hệ thần kinh trung ương rồi được truyền ra cơ quan có bệnh, hình thành một cung phản xạ bệnh lý.

Như trên đã trình bày, châm hay cứu là một kích thích gây ra cung phản xạ mới, nếu cường độ của kích thích được đầy đủ sẽ ức chế ổ hưng phấn do tổn thương bệnh lý, tiến tới làm mất và phá vỡ cung phản xạ bệnh lý.

Trên thực tế lâm sàng, người ta thấy hiệu quả nhanh chóng của châm cứu trong việc làm giảm cơn đau một số bệnh, người ta còn thấy tác dụng của châm cứu có thể làm thay đổi hoặc đi tới làm mất phản xạ đau của một số bệnh. Khi châm cứu để đảm bảo kết quả điều trị, kích thích phải đạt tới ngưỡng (seuil dexcitation) mà YHCT gọi là đắc khí và phải tăng cường cường độ của kích thích khi cần thiết để nâng cao thêm hiệu quả chữa bệnh mà YHCT gọi là thủ thuật bổ tả.

1.1.3. Sự phân chia ra tiết đoạn thần kinh và sự liên quan giữa các tạng phủ đối với các vùng cơ thể do tiết đoạn chi phôi

 Thần kinh tuỷ sống có 31 đôi dây, mỗi đôi dây chia ra ngành trước và ngành sau chi phối vận động và cảm giác một vùng cơ thể gọi là tiết đoạn. Sự cấu tạo thần kính này gọi là sự cấu tạo tiết đoạn {Giản đồ về sự phân chia tiết đoạn thần kinh

 Mỗi tiết đoạn thần kinh chi phối cảm giác ở một vùng da nhất định của cơ thể có liên quan đến hoạt động của nội tạng nằm tương ứng với nó.

Khi nội tạng có bệnh, người ta thấy có sự tăng cường cảm giác vùng da cùng tiết đoạn với nó như cảm giác đau, thay đổi điện sinh vật...

Hiện tượng này xảy ra do những sợi thần kinh giao cảm bị kích thích, xung động dần truyền vào tuỷ lan toả vào các tế bào ;ảm giác sừng sau tuỷ sống gây ra những thay đổi về cảm giác ở vùng da. Mặt khác những kích thích giao cảm làm co mạch, sự cung cấp máu ở vùng da ít đi và làm điện trở ở da giảm xuống gây ra những thay đổi về điện sinh vật.

Trên cơ sở những hiện tượng này Zakharin và Head đã thiết lập được một giản đồ về sự liên quan giữa vùng da và nội tạng và là nguyên lý của các máy chẩn đoán dưới da, kinh lạc chẩn...

Nội tạng
Tiết đoạn
Tim
DI - D3 (D4 - D6)
Phổi, phế quản
D2 - D3 (D4 - D6)
Thực quản
D7 - D9
Dạ dày
D6 - D9
Ruột
D9 - D12
Trực tràng
S2 - S4
Gan, mật
D7 - D9
Thân, niệu quản
D10 - D12 (LI - L2)
Bàng quang
DI 1 - LI (SI - S4)
Tiền liệt tuyết
D10 - DI 1 (L5 - SI - S3)
Tử cung
D10 - LI - L2 (SI - S4)
Tuyến vú
D4 - D5
D = Lưng; L = Thắt lưng; s = Cùng

Bảng đối chiếu sự liên quan giữa các nội tạng và tiết đoạn thần kinh

Nếu nội tạng có tổn thương, dùng châm cứu hay các phương pháp vật lý trị liệu khác vào các vùng da có phản ứng hay các vùng da trên cùng một tiết đoạn với nội tạng sẽ chữa các bệnh ở nội tạng.

Lưu trữ Blog