1.1.1. Châm hay cứu là một kích thích
gây ra một cung phản xạ mới
- Châm là một
kích thích cơ giới, cứu là một kích thích về nhiệt, gây kích thích tại da, cơ.
- Tại nơi
châm, cứu có những biến đổi: tổ chức tại nơi châm bị tổn thương sẽ tiết ra
histamin, nhiệt độ ở da thay đổi, bạch cầu tập trung, phù nề tại chỗ, các phản
xạ đột trục làm co giãn mạch máu...
Tất cả những
kích thích trên tạo thành một kích thích chung của châm cứu, các luồng xung động
của kích thích được truyền vào tuỷ lên não, từ não xung động chuyển tới cơ quan
đáp ứng hình thành một cung phản xạ mới.
1.1.2. Hiện tượng chiếm ưu thế của
Utomski
Theo nguyên
lý của hiện tượng chiếm ưu thế của Utom ski thì trong cùng một thời gian ở một
nơi nào đó của hệ thần kinh trung ương, có hai luồng xung động của hai kích
thích đưa tới. Kích thích nào có luồng xung động mạnh hơn và liên tục hơn sẽ
kéo các xung động của kích thích kia về nó và tiếp tới dập tắt kích thích kia.
Khi có bệnh,
tổn thương tại các cơ quan (ổ viêm, loét...) là một kích thích, xung động được
truyền vào hệ thần kinh trung ương rồi được truyền ra cơ quan có bệnh, hình
thành một cung phản xạ bệnh lý.
Như trên đã
trình bày, châm hay cứu là một kích thích gây ra cung phản xạ mới, nếu cường độ
của kích thích được đầy đủ sẽ ức chế ổ hưng phấn do tổn thương bệnh lý, tiến tới
làm mất và phá vỡ cung phản xạ bệnh lý.
Trên thực tế
lâm sàng, người ta thấy hiệu quả nhanh chóng của châm cứu trong việc làm giảm
cơn đau một số bệnh, người ta còn thấy tác dụng của châm cứu có thể làm thay đổi
hoặc đi tới làm mất phản xạ đau của một số bệnh. Khi châm cứu để đảm bảo kết quả
điều trị, kích thích phải đạt tới ngưỡng (seuil dexcitation) mà YHCT gọi là đắc
khí và phải tăng cường cường độ của kích thích khi cần thiết để nâng cao thêm
hiệu quả chữa bệnh mà YHCT gọi là thủ thuật bổ tả.
1.1.3. Sự phân chia ra tiết đoạn thần
kinh và sự liên quan giữa các tạng phủ đối với các vùng cơ thể do tiết đoạn chi
phôi
Thần kinh tuỷ sống có 31 đôi dây, mỗi đôi dây
chia ra ngành trước và ngành sau chi phối vận động và cảm giác một vùng cơ thể
gọi là tiết đoạn. Sự cấu tạo thần kính này gọi là sự cấu tạo tiết đoạn {Giản đồ
về sự phân chia tiết đoạn thần kinh
Mỗi tiết đoạn thần kinh chi phối cảm giác ở một
vùng da nhất định của cơ thể có liên quan đến hoạt động của nội tạng nằm tương ứng
với nó.
Khi nội tạng
có bệnh, người ta thấy có sự tăng cường cảm giác vùng da cùng tiết đoạn với nó
như cảm giác đau, thay đổi điện sinh vật...
Hiện tượng
này xảy ra do những sợi thần kinh giao cảm bị kích thích, xung động dần truyền
vào tuỷ lan toả vào các tế bào ;ảm giác sừng sau tuỷ sống gây ra những thay đổi
về cảm giác ở vùng da. Mặt khác những kích thích giao cảm làm co mạch, sự cung
cấp máu ở vùng da ít đi và làm điện trở ở da giảm xuống gây ra những thay đổi về
điện sinh vật.
Trên cơ sở
những hiện tượng này Zakharin và Head đã thiết lập được một giản đồ về sự liên
quan giữa vùng da và nội tạng và là nguyên lý của các máy chẩn đoán dưới da,
kinh lạc chẩn...
Nội tạng
|
Tiết đoạn
|
Tim
|
DI - D3 (D4 - D6)
|
Phổi, phế quản
|
D2 - D3 (D4 - D6)
|
Thực quản
|
D7 - D9
|
Dạ dày
|
D6 - D9
|
Ruột
|
D9 - D12
|
Trực tràng
|
S2 - S4
|
Gan, mật
|
D7 - D9
|
Thân, niệu quản
|
D10 - D12 (LI - L2)
|
Bàng quang
|
DI 1 - LI (SI - S4)
|
Tiền liệt tuyết
|
D10 - DI 1 (L5 - SI - S3)
|
Tử cung
|
D10 - LI - L2 (SI - S4)
|
Tuyến vú
|
D4 - D5
|
D = Lưng; L = Thắt lưng; s = Cùng
Bảng đối chiếu sự liên quan giữa các
nội tạng và tiết đoạn thần kinh
Nếu nội tạng
có tổn thương, dùng châm cứu hay các phương pháp vật lý trị liệu khác vào các
vùng da có phản ứng hay các vùng da trên cùng một tiết đoạn với nội tạng sẽ chữa
các bệnh ở nội tạng.