Trong
thực tế khi tôi học cũng chỉ cần đến 4 loại Mạch nhưng lại là : phù, trầm đại,
tiểu (nổi chìm to nhỏ) mà thôi, cũng bởi
ngày nay Đông y của chúng ta đa phần là bệnh mãn tính nên tôi chỉ đi sâu vào 4
loại này thôi. Bởi vì khi điều trị thì chỉ có bổ và tả, mà khi Mạch đã trầm thì
chắc chắn là bổ hư rồi, còn khi không trầm
(tức là nổi) thì chỉ cần tả thực mà thôi. Còn như các bạn sau này sẽ học (hoặc đã học) một số Mạch của Tây y như: ngoại
tâm thu chính là mạch tước trác (tức là mạch chim sẻ mổ); Mạch của trụy tim là
nhanh nhỏ thì tương đương với mạch trầm tế sác (chìm nhỏ nhanh), nếu Mạch chậm
< 60 nhịp/ phút thì là mạch trì rồi
(điều này có thể không chuẩn vì tôi bỏ Tây y lâu rồi).
Khi
xem mạch theo như lý luận thì phải xem ở 3 mức độ: phù, trung, trầm (tức là 3 mức ấn tay: nhẹ, vừa và ấn mạnh),
xem ấn ở mức nào thì thấy mạch, có lực nhiều hay ít, hay xác định thêm biên độ
của mạch, điều này sẽ giúp ta biết được mạch Đại ở mức độ nào. Có một loại mạch
khá đặc biệt: đó là mạch trầm nhưng rất thực, có lực nhiều, tuy là trầm đúng ra
phải là Âm hư nhưng riêng đây lại là mạch của Âm thực (giống như chứng Thương hàn Dương minh kinh).
Còn như nếu chưa rõ ràng lắm thì nên xem về vấn đề ăn uống, nếu ăn khoẻ thì đây
chắc chắn là chứngThực, hay mới bị đau lần đầu mà đau nhiều hay rất nhiều cũng
là thực, điều này rất quan trọng vì nó giúp ta quyết định tả hay bổ. Đa phần
trên lâm sàng ta hay gặp mạch của cả hư lẫn thực và nếu như mạch tuy có hư
nhưng nếu cơ thể béo khoẻ thì cũng vẫn coi là Thực.
Khi
bệnh mới mắc trong vòng khoảng 1 tháng
(hay 1,5 tháng là cùng)thì lúc này vẫn phải coi là thực, bởi vì lúc này
cơ thể vẫn còn bị Hàn bó ở ngoài nên vẫn phải tả để đuổi Hàn đi. Hoặc cơ thể
béo khỏe, mạch tuy trầm nhưng đau nhiều lần đầu tiên vẫn nên tả ngay. còn nếu
như đau đã lâu ngày nhưng không nhiều nay đột ngột đau nhiều thì lại là hư, cần
bổ.
Tác
dụng nhiều nhất của Mạch là phục vụ cho khi bắt đầu kê đơn uống thuốc ngày đầu
tiên, bởi như tôi đã nói nếu mạch trầm thì bổ, mạch thực thì tả nên rất quan trọng,
nếu nhầm thì bệnh khó giảm. hiệu quả sẽ hạn chế.
Khi
khám bệnh còn có phần hỏi và xem lưỡi để bổ xung cho đầy đủ, và có một số triệu
chứng mà mạch không nói ra được: ví dụ như hội chứng Uất, hay triệu chứng lạnh
tay chân, hay ỉa chảy, đặc biệt là hội chứng Đàm thấp, nếu không nhìn lưỡi thì
khó có thể phát hiện được, đây đều là những triệu chứng rất quan trọng khi khám
bệnh.
Theo
tôi về Mạch nếu đi sâu được thì tốt, còn không thì như thế cũng là tạm được rồi,
trong 1 quyến sách xuất bản từ lâu lắm rồi tôi đã đọc qua họ còn nói đến cả mạch
của mệnh phụ phu nhân, mạch trai hay gái, người giầu, nghèo…nhưng những cái đó
chưa cần thiết . Cái quan trọng là kê đơn thuốc thế nào, khám triệu chứng gì là
chính, theo dõi ra sao, có bao nhiêu thể bệnh…đấy mới là vấn đề quan trọng và
các bạn sẽ mất rất nhiều thì giờ vào nó nếu đi sâu tìm hiểu.
Kết
luận lại là Mạch rất quan trọng khi ở giai đoạn đầu của điều trị, nó giúp ta
quyết định đơn thuốc đầu tiên, đây là điều rất quan trọng . Còn ở giai đoạn sau
của điều trị thì nó chỉ còn tác dụng giúp một phần để theo dõi quá trình diễn
biến của cơ thể bệnh mà thôi.
Vài
kinh nghiệm nhỏ đóng góp cùng các bạn.
Loạt bài Điều trị đông y của thành viên loccoc1368 trên
http://diendanykhoa.com