Trong
các sách Đông y có nhiều đơn thuốc bổ Thận nhưng trên thực tế tôi chỉ thấy có 3
đơn chính, đó là: Lục vị, Bát vị,Thập bổ. Đây là các đơn có ứng dụng nhiều trên
lâm sàng. Trong đó đơn Lục vị hay được vận dụng nhiều nhất, thứ 2 là đơn Thập bổ,
còn đơn Bát vị cũng ít khi dùng đến. Đơn Lục vị dùng khi Thận âm hư nhiều, đơn
Thập bổ dùng khi Thận âm và Thận dương đều hư, đơn Bát vị dùng khi Thận dương
hư nhiều hơn.
Khi
mắc bệnh hay cơ thể con người khi đến một giai đoạn nào đó chân Âm sẽ bị suy
đi, từ đó phát sinh ra bệnh tật. Ở thời kỳ đầu của giai đoạn Thận hư khi thì
thường Thận âm bị suy trước và Thận dương chưa suy nên lúc này chỉ có Thận âm
hư đơn thuần nên chỉ cần bổ Thận âm là đủ, phải trọng dụng ngay đơn Lục vị, khi
dùng thì phải gia thêm thuốc khu phong, trừ thấp, bổ tâm vv… tùy theo từng bệnh
mà gia thêm loại nào cho phù hợp. ví dụ như bị phong thấp nên gia Kim ngân,
Phòng phong là những thứ thuốc nhuận trong phong dược, hay bổ Tâm như Liên nhục…
Nếu chân Âm chưa hư lắm thì có thể gia Khương hoạt, Độc hoạt (vì đây là những vị mang tính táo, chỉ khỏe mạnh
mới nên dùng).
Đã
gia thuốc khu phong thì cũng phải gia thêm thuốc giáng hỏa. Có 2 loại giáng hỏa:
thứ nhất là bổ Âm , gồm những vị có tính Cam hàn như Mạch môn, Sa sâm. Đan sâm,
nếu có táo hỏa thì gia Thiên môn (theo
nguyên tắc bổ Âm để liễm hỏa), và nên gia thêm chút ít Xa tiền. Loại thứ 2 tính
khổ hàn như Tri mẫu, Hoàng bá có tác dụng giáng hỏa trực tiếp. Còn gia thêm
Ngưu tất để tăng phần liễm nạp lại. Còn cần phải gia giảm nữa thì theo chỉ định
của đơn Lục vị (mà bạn VTm_k5c đã viết)
Đơn
thuốc thứ 2 là đơn Thập bổ, đây là đơn thuốc trung gian giữa đơn Lục vị và Bát
vị. Trong các sách có nói là gia thêm những vị như Lộc nhung, Câu kỷ… nhưng đấy
chỉ là khi cơ thể quá suy mà thôi (tất
nhiên có mà gia thêm thì tốt quá, không thừa). Còn bình thường thì chỉ cần gia
thêm những vị như: Ngưu tất, Đỗ trọng, Tục đoạn
(thuốc bổ Thận dương) thay cho thuốc khu phong là được rồi. Chỉ định của
nó là khi Mạch trầm vi kèm theo hư nhiệt. Còn phải gia thêm Âm dược như Mạch
môn, Đan sâm, Câu kỷ để bổ cho Thận âm
(theo nguyên tắc: bổ cho Phế âm để snh Thận thủy, tức là bổ luôn cho cả
Thận thủy, bởi khi Thận Dương suy thì thường là Thận Âm đã suy từ trước đó rồi).
Nếu như đi ngoài phân lỏng thì gia thêm những vị như Đậu khấu, Thăng ma, bỏ
Ngưu tất, Đan bì và theo tỉ lệ phù hợp.
Cũng
sẽ có người hỏi rằng làm gì phải gia thêm nhiều thứ để cho loạn đơn thuốc,
nhưng đây là những điều rất cần thiết mà tôi đã rút ra được từ thực tế, bởi vì
đây là đơn thuốc thang chứ không phải là thuốc hoàn. Khi tạng Thận suy ít thì
nên dùng thuốc hoàn phối hợp với đơn thuốc khu phong (như cụ HTLO viết trong sách “ Huyền tẫn phát
vi”, còn khi bệnh mãn tính (đã suy từ
lâu) nếu đưa được càng nhiều thuốc vào cơ thể thì càng tốt, mức tối đa mà cơ thể
chấp nhận được thì mới nhanh khỏi được.
Như
trên tôi đã nói là khi mạch đã Trầm vi tức là trạng thái cơ thể lúc này đã suy
khá nhiều rồi (ở đây phải hiểu là Âm
dương của cơ thể bị suy thì chính xác hơn) nên nếu gia thêm cả thuốc khu
phong (dù là thuốc nhuận đi nữa) cơ thể
sẽ không hấp thụ được nên chỉ gia 100% thuốc bổ mà thôi, tức là gia thuốc bổ Thận
dương và thuốc Cam hàn để bổ Âm phối hợp.
Thứ
3 là đơn Bát vị, đầu tiên phải nói đến chỉ định cúa đơn này là có triệu chứng
chân tay lạnh, bao giờ cũng lạnh chân trước, khi nặng hơn nữa thì sẽ lạnh đến
tay, vừa thì lạnh chỉ ở bàn tay, nếu nặng thì sẽ lạnh đến khuỷu hoặc hơn nữa,
đây là triệu chứng tôi cho là cơ bản. Ngoài ra còn mạch cũng thường Trầm vi, có
thể kèm theo một số triệu chứng như tiểu đêm, đi ngoài phân nhão hay lỏng, mất
ngủ…Đơn Bát vị chính là từ đơn Lục vị gia thêm Nhục quế, Phụ tử mà thành nhưng
hiện nay tìm Nhục quế không phải dễ (loại
Quế dày, có dầu) nên tôi chỉ có gia mỗi Phụ tử thôi, kết quả cũng rất tốt. Chú
ý Phụ tử bào chế theo phương pháp cổ điển của cụ Hải Thượng Lãn Ông chứ không
dùng loại đang có trên thị trường.
Gia
giảm thêm nữa thì cứ theo như đơn Thập bổ.
Loạt bài Điều trị đông y của thành viên loccoc1368 trên
http://diendanykhoa.com