Thứ Năm, 4 tháng 12, 2014

Bài 14: suy luận thực tế trên bệnh nhân ung thư

Bênh nhân B.T., nữ, 47 tuổi:

1- Quá trình bệnh lý

- Bị ung thư vú đã mổ 1/2006, khi mổ chỉ có khối u nhỏ bên vú trái, khi mổ có vét hêt sạch tổ chức hạch xung quanh lên tới tận nách trái, sinh thiết khoảng> 20 mẫu không có tế bào K, về nhà không phải can thiệp phương pháp điều trị ung thư nào. Sau mổ cứ 3 tháng một lần đi đến viiện K để kiểm tra định kỳ, chủ yếu là chụp phổi và siêu âm phần phụ. Sau mổ ung thư kiểm tra bằng siêu âm có khối u xơ tử cung kích thước khoảng hơn 2X2 cm. Đến lần đi khám ngày 12/4/2010 vì có đau thắt lưng nên bác sỹ viện K có cho đi chụp xạ hình vì nghi ngờ di căn vào cột sống  (xạ hình là tiêm thuốc phóng xạ vào mạch máu sau đó chụp toàn thân), sau khi chụp có thấy 5-6 điểm tụ chất phóng xạ ở đầu, vai, cánh chậu, không thấy tụ ở phổi, phần phụ, đại tràng và hệ thống xoang, cột sống thắt lưng  (là những vị trí nhạy cảm). Bác sỹ kết luận đã di căn vào xương,định cho dùng hoá chất ngay nhưng bênh nhân xin về xuống điều trị sau.

-Tiền sử: bị mắc bệnh viêm xoang dị ứng và viêm đại tràng chức năng đều đã 20 năm, không nặng cũng không nhẹ, hay nhức đầu và đắng miệng mỗi khi thay đổi thời tiết.

- Triệu chứng đông y sau chụp xạ hình:Lưỡi tím nhạt, rêu vàng mỏng,không nhiều (tôi chỉ nêu triệu chứng cần cho suy luận sau này).

2- Quá trinh điều trị

Sau khi mổ về, bệnh nhân chỉ dùng thuốc Đông y, đã uống 5-6 đợt, chủ yếu dùng thuốc bổ, mỗi đợt khoảng 20 ngày thì sau đó triệu chứng nhức đầu đã giảm nhiều, Đặc biệt đợt cuối vào tháng 10/2009 có công phạt bằng cách tả Dương 2 lần thì lưõi từ màu tím đã chuyển thành màu đỏ , rêu vàng mỏng, ít, đồng thời chứng nhức đầu, đắng miệng giảm đi rất nhiều, u xơ tử cung khi siêu âm về sau này không thấy nữa.

Nhận xét: có 2 vấn đề mà tôi suy nghĩ.

a- Thứ nhất: về vấn đề di căn:

+ Ngay sau khi mổ khối ung thư vú đã xét nghiêm sinh thiết khá rộng xung quanh khối u và kết quả là không có di căn.

+ Sau khi mổ có định kỳ 3 tháng 1 lần kiểm tra chủ yếu là phổi và phần phần phụ khoa cũng không có nghi ngờ ung thư.

+ Nếu như di căn thì ngoài phần phụ là hay gặp nhất thì đứng thư 2 phải là 2 cơ quan có bệnh mãn tính chứ.

+ Triệu chứng đau lưng là của thân dương hư bởi vì trước khi đi chụp xạ hình thì bênh nhân cũng đã thỉnh thoảng có đau cột sống thắt lưng rồi.

+ Sau khi mổ về bệnh nhân đựơc điều trị bằng đông y ngay và chứng nhức đầu đã giảm nhiều. Nhức đầu là một biểu hiện của hội chứng Uất, khi nhức đầu giảm tức là âm dương đã được cân bằng trở lại và âm dương khi đã cân bằng hơn thì bệnh sẽ chậm phát triển hay dừng hẳn lại.

+ Khối u xơ tử cung không còn.

Trên cơ sở như vậy thì liệu những chỗ tụ nhiều chất hoá xạ kia có phải là di căn hay là có ngay từ đầu cùng với khối ung thư vú trái? Và tôi kết luận là có từ đầu chứ không phải là di căn. Vậy nếu là có từ đầu thì lại đặt ra 1 câu hỏi là mức độ tiến triển thế nào? Và ở bệnh nhân này thì tôi đánh giá là mức độ tiển triển có thể là có nhưng rất chậm, bởi vì sau 3 năm rưỡi nếu với thể trạng bệnh nhân vẫn như như trước khi mổ thì sẽ tiến triển rất nhanh  (vì đây là cơ thể tương đối đặc biệt, thuộc về thể: thận âm, dương đều hư, khí uất).

b- Thứ 2 là về khía cạnh đông y: uống thuốc sau khi mổ.

Sau khi đi chụp xạ hình về thì đến ngày 12/4/2010 tôi lại bắt đầu cho bệnh nhân uống thuốc bắc, theo như đơn thuốc lúc trước đã uống  (đơn Dưỡng huyết khu phong, đơn này bổ cho Hậu thiên) đã bỏ phần công phạt đi bởi theo qui trình phải là thế. Sau khi uống được 1 ngày thì lưỡi từ đỏ hơi nhạt chuyển sang tím nhạt, rêu không thay đổi, đây là biểu hiện của Hoả nhiệt tăng lên, là không thuận, đáng lẽ ra phải là không thay đổi hay rêu giảm đi mới là thuận. Như lý luận đã nói: “ trăm bệnh đều do hoả nhiệt sinh ra” nên khi điều trị phải làm cho Hoả giảm đi. Vậy là đặt ra vấn đề: Hoả nhiệt tăng lên là do ở đâu? cũng khó trả lời.

- Diễn biến bệnh lý bình thường là:

+ Khi mạch trầm vi tức là phải bổ âm,vì do thiếu âm, nhưng khi bổ âm mà không được thì sẽ do 2 lý do: hoặc đơn bổ chưa phù hợp, hoặc do thiếu âm dược..

+ Bệnh nhân này lại là sau khi dùng thuốc có tính phóng xạ, là thuốc rất mạnh, rất hại cho cơ thể  (sau khi tiêm thuốc các y bác sỹ đều không dám lại gần bệnh nhân vì sợ chất phóng xạ), những thuốc có tính khí mạnh đều làm hao tổn phần âm.

Trên cơ sở như vậy thì kết luận đây là hoả vượng do phần âm bị hao đi khi dùng đơn bổ không phù hợp. Đã bổ Hậu thiên không hợp thì bắt buộc phải chuyển sang dùng đơn bổ Tiên thiên  (tức là đơn thuốc thận) , và tôi dùng đơn Lục vị, y rằng chỉ sau 1 ngày cơ thể bệnh nhân diễn biến đúng như dự đoán.

Bàn luận

Đến ngày 18/4/2010 có người quen đã mang phim xuống bệnh viện Việt đức tham khảo ý kiến của các thầy chuyên khoa xương thì được các thày cho biết rằng tỉ lệ ung thư vú di căn vào xương chỉ chiếm có 0,1-0,2% mà thôi  (điều này càng củng cố cho suy luận là đúng).

Về khia cạnh di căn thì đây chỉ là suy luận râu ria thôi, bởi tôi va chạm với bệnh nhân ung thư rất ít, nhưng cũng có phần tích cực ở chỗ: nếu như mình mà cũng bảo : nguy hiểm đấy thì bệnh nhân sẽ buồn nhiều  (bệnh tư tưởng mà), nhưng khi được nghe phân tích như trên thì thái độ bệnh nhân khác hẳn, vui vẻ hơn nhiều.

Còn mọi người khi nghe nói đến ung thư thì có vẻ ghê gớm nhưng thực ra như đối với bệnh nhân này thì tôi thấy cũng không có gì đáng ngại cả, miễn là mình nắm chắc được lý luận thì bệnh chắc chắn sẽ được khống chế ở mức độ nào đó  (tất nhiên là phải là chưa nặng và có điều kiện để dùng được thuốc).

Ở bệnh nhân này sau khi được điều trị lần cuối thì lưỡi đã từ tím chuyển sang đỏ , đây là một dấu hiệu cho thấy Hoả nhiệt đã giảm, mà như lý luận thì Hoả nhiệt là nguyên nhân gây ra cả trăm thứ bệnh, điều trị đông y tức là làm cho âm dương cân bằng trở lại thì sẽ trị được bệnh,  (hoặc làm cho Hoả giáng, hoặc làm cho âm vượng lên). Cho nên tôi mới tạm khẳng định ca này tiến triển chậm là ở căn cứ như vậy.

Khi âm dương đã được chỉnh về mức độ cân bằng thì sẽ có mấy tác dụng sau:

- Tuỳ theo mức độ giảm của Hoả nhiệt mà bệnh sẽ tiến trển chậm lại hay dừng hẳn hay giảm dần đi.

- Thứ hai là khi đã cân bằng hơn thì sẽ làm cho cơ thể dung nạp thuốc (ở đây là nói về thuốc chữa thẳng vào bệnh, ví dụ như hạ áp, chống viêm...) được tốt hơn, đây cũng chính là tác dụng chống nhờn thuốc cả điều trị Đông y.

Trên thực tế lâm sàng nhiều khi như đứng giữa ngã ba đường, bởi vì biển học là mênh mông cho nên cần phải nắm chắc được kiến thức cơ bản thì sẽ vượt qua được.

 (Về khía cạnh di căn  (Nội khoa) đề nghị bạn nào đã va chạm nhiều với lĩnh vực này thì xin chỉ giáo thêm).

Loạt bài Điều trị đông y của thành viên loccoc1368 trên http://diendanykhoa.com