bài số 7: NGUYÊN TẮC ĐỊNH LƯỢNG.
Định
lượng là một nguyên tắc quy định về lượng thời gian tác động dài hay ngắn.
Thời
gian tác động tại trọng điểm có tính quyết định thời gian tác động, đáp ứng đúng
với nơi tiếp nhận của cơ thể người bệnh, thì hiệu quả cao, chưa đúng với mức tiếp
nhận thì hiệu quả thấp, hoặc quá mức tiếp nhận, thì cơ thể có sự phản ứng ngược
lại, và kết quả điều trị ban đầu lại mất hết.
Do
đó, PPTĐĐVCS quy định thời gian thao tác cho từng buổi chữa và thời gian là quá
trình điều trị thành một nguyên tắc.
I.
THỜI GIAN THAO TÁC:
Thời
gian thao tác là một quy định cho việc dùng thủ thuật tác động tại trọng điểm
dài hay ngắn.
Thời
gian cho một lần điều trị không xuất phát từ sự áp đặt chủ quan của người chữa
bệnh, mà phải căn cứ vào sự phản ứng của cơ thể người bệnh, để ứng dụng cho thích
hợp.
Sự
phản ứng đó biểu hiện bằng hiện tượng khô của mặt da, chuyển sang ẩm ướt tại trọng
điểm, mà ta có thể nhận biết ngay trên đầu ngón tay đang thao tác.
PPTĐĐVCS
định nghĩa mức độ nầy là ngưỡng thao tác. Trong khi tác động chữa bệnh phải tập
trung chú ý theo dõi.
-
Khi trọng khu, trọng điểm còn khô, là thời gian tác động chưa đúng yêu cầu, chưa
đến ngưỡng. Ngưng thao tác thì hiệu quả ít.
-Khi
trọng điểm đã ẩm ướt, là hiệu quả tác động đã cao nhất và đạt ngưỡng thao tác,
đáp ứng đúng mức độ tiếp thu của cơ thể người bệnh, vì vậy phải ngưng ngay thao
tác.
-Khi
mặt da tại trọng điểm đã ẩm ướt, mà vẫn tiếp tục thao tác là quá ngưỡng, quá mức
tiếp nhận của cơ thể, tạo nên một phản xạ ngược lại, do bị kích thích quá mức, nên
những kết quả ban đầu bị xoá hết.
Trong
khi điều trị, ta cần tập trung theo dõi về phản ứng cơ thể của người bệnh: đến
ngưỡng phải dừng.
Thường
trường hợp có ổ rối loạn quá lớn ta tập trung thao tác để giải toả tức thời thì
ổ rối loạn đó thừơng bị quá ngưỡng.
Khi
gặp những trường hợp có ổ rối loạn quá lớn nầy ta cần xác định mặc dù còn rối
loạn lớn, nhưng khi trọng điểm đã ẩm ướt thì phãi ngưng thao tác, để tránh tác
động phản ứng ngược lại của cơ thể bệnh nhân.
-Cơ
thể có khả năng tự điều chỉnh để giải toả ổ bệnh và chỉ tiếp thu đến mức nhất định
trong từng lần điều trị. Ngưỡng thao tác nầy có thể rất khác nhau. Có lần, có
thể bệnh nhân tiếp nhận thao tác được lâu mới đạt ngưỡng, có lần cơ thể tiếp nhận
rất mau đã đến ngưỡng.
TÓM
LẠI: Trong việc điều trị, ta không những phải chú ý đến hình thái và vị trí khu
trú của trọng điểm, triệu chứng cơ năng của con người cụ thể mà còn phải chú trọng
đến nguyên tắc định lượng để áp dụng thủ thuật thao tác trong thời gian thích hợp
nhất cho cơ thể người bệnh, đạt kết quả cao nhất ( thời trị), đó chính là đạt tới
ngưỡng thao tác thích hợp trị bệnh.
II.
THỜI GIAN CỦA QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ:
Đặc
điểm và hình thái của trọng điểm bao giờ cũng biểu hiện trên lớp cơ đệm bị sơ, co,
tạo
nên
sự dính cứng giữa các đốt sống gọi là khe đốt. Có trường hợp chỉ tác động đều
trị một lần, thì các đốt bị dính cứng, đã chuyển động.
Sự
chuyển động của các đốt sống bị dính cứng, là cơ sở để tiếp xúc thời gian của
quá trình điều trị.
Khi
tác động bằng thủ thuật sóng, mà đốt sống đã chuyển động, thì phải ngừng vì đã
đạt ngưỡng.
Nhưng
khi tác động bằng thủ thuật nén, mà đốt sống đã chuyển động thì phải tiếp tục
áp dụng thủ thuật sóng, cho đến khi sự chuyển động trở lại bình thường hẳn mới
hoàn thành quá trình điều trị.
CHÚ
Ý:
1.
Khi điều trị mà các khe đốt của trọng điểm còn dính cứng là chưa giải toả được ổ
bệnh, cần tiếp tục điều trị, mặc dù triệu chứng cơ năng đã hết. Lúc nầy nếu ngừng
điều trị, thì bệnh có khả năng tái phát.
2.
Khi các khe đốt của trọng điểm đã chuyển động bình thường, mà các triệu chứng
cơ năng chưa hết, cũng ngưng điều trị. Vì một thời gian sau, triệu chứng cơ năng
cũng dần dần tan biến do khả năng tự điều chỉnh của cơ thể.
3.
Khi các khe đốt của trọng điểm đã chuyển động mà vẩn tiếp tục thao tác trị bệnh
thì sự dính cứng sẽ trở lại ; các triệu chứng cơ năng sẽ trở lại, lúc ẩn lúc hiện
thất thường, bệnh dây dưa không hết.
TÓM
LẠI: Khi thao tác đã tách được sự dính cứng của cột sống là ngừng, kết thúc quá
trình điều trị.. /..