Căn cứ vào tính chất, vị trí và tác dụng một số du huyệt, người ta phân loại và đặt tên riêng đề dễ vận dụng trong việc chữa bệnh.
Chương này chỉ nêu tên, định nghĩa và sơ lược
về tác dụng, còn sẽ nói rõ cách sử dụng ở các chương sau.
3.1. Huyệt nguyên
Huyệt nguyên
là huyệt tập trung khí huyết nhất của một đường kinh, 12 đường kinh chính có 12
huyệt nguyên
Như huyệt
Thái uyên là huyệt cua kinh phế; huyệt Thái xung là huyệt của kinh can...
3.2. Huyệt lạc
Huyệt lạc là
một huyệt trên đường kinh có liên quan với đường kinh biểu lý với đường kinh
đó; có tất cả 15 huyệt lạc; 12 đường kinh chính có 12 huyệt, 2 đường kinh phụ
(nhâm, đốc) có 2 huyệt và 1 tổng lạc (huyệt Đại bao ở kinh tỳ).
Như huyệt
Công tôn là huyệt lạc của kinh tỳ liên quan với kinh vị; huyệt Phong long là
huyệt lạc của kinh vị liên quan với kinh tỳ...
3.3. Huyệt du
Huyệt du là
huyệt tương ứng với các phủ tạng, nằm ở kinh bàng quang sau lưnc. Có 12 huyệt
du tương ứng với 12 tạng phủ.
3.4. Huyệt mộ (còn gọi là huyệt mạc )
Huyệt mộ là
huyệt nàm trên đường kinh đi qua ngực, bụng, tương ứng với các huyệt phủ tạng.
Có 12 huyệt mộ.
Như Trung phủ
là huyệt mộ của phế; Thiên khu là huyệt mộ của đại trường v.v...
3.5. Huyệt khích (khích = chỗ trống)
Huyệt khích
là huyệt trên một đường kinh, có những thay đổi cảm giác (đau, chướng...) khi tạng
phủ hay đường kinh mang tên tạng phủ có bệnh huyệt khích đưực dùng đổ chẩn đoán
(kinh lạc chẩn) hay để chữa các chứng bệnh cấp tính.
3.6. Huyệt bát hội
Huyệt bát hội
gồm 8 huyệt, mỗi huyệt là nơi tụ hội một chức năng chính của cơ thể. Có 8 chức
năng chính; khí, huyết, tạng, phủ, xương, tuỷ, cân. mạch.
Như cách du
là huyệt hội của huyết: Trung quản là huyệt hội của phủ.
3.7. Huyệt hội
Huyệt hội là
nơi gặp nhau của 2 dường kinh trở lên. Như Đại chùy là huyệt hội của tất ca các
kinh dương, Tam âm giao ỉà nơi gặp nhau của 3 kinh tỳ, can, thận v.v…
3.8. Huyệt ngĩi du
Huyệt ngũ du
là các huyệt của một đường kinh. Vị trí từ khuỷu tay đến bàn tay, đầu gối đến
bàn chân; được phân loại tác dụng và vận dụng theo lý luận ngũ hành.
Kinh khí đi
trong đường kinh như một đòng nước chảy nên huyệt ngũ du được phân ra như sau:
- Huyệt hợp:
nơi dòng nước đi vào.
- Huyệt
kinh: nơi dòng nước đi qua.
- Huyệt du:
nơi dòng nước dồn lại.
- Huyệt huỳnh:
nơi dòng nước chảy xiết.
- Huyệt tỉnh:
nơi dòng nước đi ra.
Các huyệt
này ngoài việc chữa bệnh có hiệu lực cao ở đường kinh, khi vận dụng theo học
thuyết ngũ hành còn có những biến hoá để mở rộng thêm khả năng và kết quả chữa
bệnh của châm cứu.