1.1. Chữa bệnh phải tìm gốc bệnh (trị
bệnh cầu kỳ bản)
Gốc bệnh là
những nguyên nhân gây bệnh bao gồm những nguyên nhân bên ngoài (tự nhiên, xã hội,
ngoại nhân )và những thay đổi bén trong cơ thể con người gọi là nội nhân.
Vai trò nội
nhân quan trọng nhất, đó là sự suy yếu về chính khí hay sức đề kháng của con
người về các mặt âm dương, khí huyết, tân dịch, tinh thần và công năng các tạng
phủ, kinh lạc.
Vì vậy khi
chữa bệnh, YHCT đề ra phải phù chính khí, trừ tà khí (phù chính khu tà) mà phù
chính khí là chủ yếu.
1.2. Chữa bệnh phải có ngọn, gốc,
hoãn cấp (tiêu, bản, hoãn cấp)
Gốc bệnh và
ngọn bệnh có thể tóm tắt như sau: gốc bệnh là nguyên nhân, bệnh cũ, chính khí,
bệnh thuộc lý, bệnh ở dưới. Ngọn bệnh là triệu chứng, bệnh mới mắc, tà khí, bệnh
thuộc biểu, bệnh ở trên. Gốc bệnh và ngọn bệnh đối lập với nhau, khi chữa bệnh
có những nguyên tắc sau:
1.2.1. Cấp
thì trị ngọn (cấp trị tiêu): đê chỉ những chứng bệnh nguy hiểm đến tính mạng
người bệnh phải được cấp cứu kịp thời như hen phế quản là do thận không nạp phế
khí, khi đang lên cơn hen phải cắt cơn hen trước, khó thở gây suy hô hấp trong
viêm phổi thì phải cấp cứu chứng khó thở trước...
1.2.2. Hoãn
thì trị gốc (hoãn tri bản): đối với bệnh mạn tính lúc chưa phát bệnh thì phải
chữa vào gốc bệnh. Thí dụ khi không có cơn hen thì phái chữa vào thận để bệnh
nhân khỏi tái phát, vì bệnh hen là do thận hư không nạp phế khí. viêm đại tràng
do tỳ hư khi không có ỉa chảy phải chữa vào tỳ.
1.2.3. Không
hoãn, không cấp thì chữa cả tiêu lẫn bản: như bệnh lao phổi do phế âm hư có các
triệu chứng ho, triều nhiệt, ra mồ hôi trộm... thì phải vừa bổ phế âm (chữa gốc
bệnh) vừa cho thuốc chữa ho, sinh tân dịch... (chữa ngọn), người cao huyết áp
do can thận hư sinh các chứng nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt., thì vừa cho thuốc
bổ can thận vừa cho thuốc tiềm dương dê chữa các triệu chứng.
1.3. Chữa bệnh có bổ, có tả
Bệnh xảy ra
do chính khí hư và tà khí thực, hư thì bổ mà thực thì tả. Quá trình diễn biến của
bệnh tật là sự đấu tranh giữa chính khí và tà khí, phải vừa bổ để nâng cao
chính khí và vừa tả để trừ tà khí.
Thí dụ: người
bẩm tố dương hư khi gặp lạnh bị cảm mạo phong hàn, thì phati bổ dương khí và
phát tán phong hành. Người sốt cao do mắc bệnh nhiễm trùng gây mất tân dịch thì
phải vừa dưỡng âm sinh tân vừa phải thanh nhiệt trừ tà.
1.4. Chữa bệnh phải có đóng, mở
(khai, hạp)
Nguyên tắc
này còn gọi là "bình Nam, bổ Bắc", như chứng âm hư sinh nội nhiệt (ức
chê giảm mà hưng phấn tăng) thì phái cho các thuốc bổ âm (nâng cao ức chế), mặt
khác phải cho các thuốc thanh hư nhiệt, tiết nhiệt (hạ hùng phấn). Bệnh ỉa chảy,
đi tiểu ít thì phái cầm ỉa chảy, mặt khác cho thuốc lợi niệu đi tiểu được nhiều
sẽ giúp cho việc cầm ỉa chảy nhanh hơn.
1.5. Chữa bệnh phải tuỳ giai đoạn
bênh: sơ, trung, mạt
Nguyên tắc
này được áp dụng nhiều cho các giai đoạn của ôn bệnh (bệnh truyền nhiễm).
Giai đoạn đầu
(sơ) hay là giai đoạn khởi phát, lúc tà khí còn ở bên ngoài (phẩn vệ) thì phải
dùng phương pháp tả (phát hãn) để đưa tà khí ra ngoài. Giai đoạn toàn phát, lúc
tà khí và chính khí đấu tranh quyết liệt với nhau bôn trong cơ thể thì phải vừa
bổ, vừa tả (vừa nâng cao chính khí, vừa trừ tà khí). TỚI giai đoạn hồi phục của
bệnh, tà suy thì chính khí cũng bị hao tổn, cần phai dùng phường pháp bổ để bồi
dưỡng chính khí hồi phục lại sức khoẻ đã bị giảm sút trong quá trình bệnh tật.
1.6. Chính trị và phản trị
Chính trị và
phản trị thực chất cũng là chữa vào bản chất của bệnh, nhưng vì trong quá trình
diễn biến của bệnh tật, có khi bản chất không phù hợp với hiện tượng nên phải đề
ra phân biệt thành 2 nguyên tắc chữa bệnh này,
Chính trị là
chữa ngược lại với các hiện tượng bệnh lý còn gọi là "nghịch trị"; phản
trị là chữa thuận theo với các hiện tượng bệnh lý còn gọi là "tòng trị”.
Khi bản chất
bệnh phù hợp với triệu chứng như nhiệt tà gây sốt cao, hàn tà gây sợ lạnh, sức
khoẻ yếu gây chứng hư. tà khí mạnh gây chứng thực, khi chữa cho thuốc ngược lại
như sốt dùng thuốc hàn lương, lạnh dùng thuốc ôn nhiệt, hư cho thuốc bổ, thực
cho thuốc tả, thì gọi là chính trị hay nghịch trị.
Thí dụ về phản
trị:
- Bệnh nhân
bị bệnh truyền nhiễm sốt cao (chân nhiệt) nhưng do nhiễm độc gây trụy tim mạch
ngoại biên làm tay chân quyết lạnh (giả hàn) cho thuốc hàn lương để chữa bản chất
bệnh là nhiệt.
- Bệnh nhân
bị ỉa chảy do lạnh (chân hàn), bỊ mất nước và điện giải gây nhiễm độc thần kinh
sốt cao. co giật (giả nhiệt) phải cho thuốc nhiệt để chữa bản chất bệnh là hàn.
- Bệnh nhân
bị ỉa chảy máu do ứ huyết gây thoát quản, cho thuốc hoạt huyết để chống sung
huyết làm mất chảy máu chứ không phái làm chảy máu thêm.