Mỗi một tạng
hay phủ có chức năng riêng biệt, nhưng chúng có quan hệ với nhau theo quy luật
vừa đối lập vừa nương tựa với nhau để tạo cho cơ thể thành một khối thống nhất
về cấu tạo và chức năng.
4.1. Quan
hệ giữa tạng với tạng
4.1.1. Tâm và phế
Tâm chủ huyết,
phế chủ khí. Tâm và phế phối hợp làm khí huyết vận hành duy trì các hoạt động
cơ thể. Khí thuộc dương, huyết thuộc âm, khí thúc đẩy huyết vận hành, huyết đi
kéo theo khí, nếu khí không thúc đẩy huyết sẽ ngưng lại gây ứ huyết, nếu không
có huyết, khí mất chỗ dựa phân tán mà không thu lại được.
Trên lâm
sàng có các chứng bệnh:
a) Phế khí hư nhược, tông khí trong tâm mạch
không đầy đủ gây ra tâm phế đều hư, tâm khí không thúc đẩy âm huyết, gây ứ huyết,
làm đau vùng ngực (hay gặp ở các bệnh xơ cứng mạch vành).
b) Tâm khí không đầy đủ gây huyết ứ làm trở
ngại đến phế mạch làm phế khí không tuyên giáng gây chứng hen suyễn (như hen
tim).
c) Tâm chủ về hoả, tâm hoả vượng ảnh hưởng
đến phế âm một mặt xuất hiện các chứng tâm phiền, mất ngủ..., một mặt xuất hiện
các chứng ho, ho ra máu. ..
4.1.2. Tâm và tỳ
Tâm chủ huyết,
tỳ sinh huyết. Nếu tỳ khí hư không vận hoá được thì tâm huyết sẽ kém gây hiện
tượng hồi hộp, hay quên, mất ngủ, sắc mặt xanh gọi là chứng tâm tỳ hư.
4.1.3. Tâm và can
Can tàng huyết,
tâm chủ huyết. Cả hai tạng phối hợp tạo thành sự tuần hành của huyết. Trên lâm
sàng hay thấy xuất hiện chứng can, tâm âm hư hay can, tâm huyết hư: hoảng hốt,
hồi hộp, sắc mặt xanh, hoa mắt, chóng mặt, móng tay không nhuận.
Can chủ sơ
tiết, tâm chủ về thần chí. Hoạt động tinh thần chủ yếu do hai tạng tâm và can
phụ trách, can và tâm do huyết nuôi dưỡng, khi chúng có bệnh ngoài các chứng trạng
về huyết kể trên còn có các chứng trạng về tinh thần như mất ngủ hay quên, hồi
hộp, sợ hãi, giận dữ...
4.1.4. Tâm và thận
Tâm ở trên
thuộc hoả, thuộc dương; thận ở dưới thuộc thuỷ, thuộc âm. Hai tạng giao nhau để
giữ được thế quân bình gọi là "thuỷ hoả ký tế" hay "tâm thận
tương giao".
Trên lâm
sàng nếu thận thuỷ không đầy đủ, không chế ước được tâm hoả gây các chứng: hồi
hộp, mất ngủ, nằm mê miệng lưỡi lở loét gọi là chứng "tâm thận bất
giao" hay "âm hư hoả vượng".
4.1.5. Phế và tỳ
Phế chủ khí,
tỳ chủ khí hậu thiên, cả 2 tạng có liên quan với nhau mật thiết. Chứng khí hư
trên lâm sàng thường xuất hiện: thở ngắn, gấp, nói nhỏ, lười nói (thuộc phế khí
hư), mỏi mệt, ăn kém, ỉa lỏng (thuộc tỳ khí hư).
4.1.6. Phế và thận
Phế chủ khí,
thận nạp khí. Thận hư không nạp được phế khí gây chứng ho, hen suyễn...
4.1.7. Can và tỳ
Can chủ về
sơ tiết, tỳ chủ vận hoá, sự thăng giáng của tỳ vị có quan hệ đến sự sơ tiết của
can. Nếu sức tiết của can bị trở ngại sẽ làm cho sự thăng giáng của tỳ vị trở
nên bất thường hay gây các chứng: ngực sườn đầy tức không muôn ăn, đầy bụng, ợ
hơi... hay gặp ở các bệnh loét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng...
4.1.8. Thận và tỳ
Thận dương
hay thận khí giúp cho tỳ vận hoá được tốt, nếu thận dương hư thì tỳ dương cũng
hư gây các chứng ỉa chảy ở người già, viêm thận mạn tính (âm thuỷ).
4.1.9. Can và thận
Can tàng huyết,
thận tàng tinh. Can huyết do thận tinh nuôi dưỡng, nếu thận tinh không đầy đủ sẽ
làm can huyết giảm sút.
Thận có thận
âm, thận dương, can có can âm, can dương. Nếu thận âm hư không nuôi dưỡng được
can âm thì can dương vượng lên như trong bệnh cao huyết áp xuất hiện các chứng:
nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, mặt đỏ...
4.2. Quan
hệ giữa tạng phủ
4.2.1. Tâm và tiểu trường
Tâm và tiểu
trường có liên quan biểu lý với nhau, trên lâm sàng nếu tâm nhiệt (sốt cao) thường
gây các chứng đái ít, đái đỏ nước tiêu nóng... Phương pháp chữa là thanh tâm lợi
niệu.
4.2.2. Tỳ và vị
Tỳ và vị là
hai cơ quan giúp cho sự vận hoá đồ ăn. Tỳ chủ vận hoá, vị chủ thu nạp, tỳ ưa
táo ghét thấp, vị ưa thấp ghét táo, tỳ lấy thăng làm thuận, vị lấy giáng làm
hoà. Như vậy tính chất của tỳ vị đối lập nhau giữa táo và thấp, giữa thăng và
giáng nhưng lại thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau để giúp cho việc tiêu hoá
được bình thường.
Khi tỳ vị có
bệnh, sự thăng giáng có thể đảo nghịch: như tỳ khí đáng lẽ đưa thanh khí
(trong) lên trên, lại đưa xuống dưới gọi là chứng tỳ hư hạ hãm gây các bệnh ỉa
chảy, sa sinh dục, sa trực tràng, băng huyết, rong huyết... tỳ khí đáng lẽ đưa
trọc khí (đục) đi xuống, lại đưa lên trên gây các chứng nôn mửa, nấc...
Tỳ vị có bệnh
gây nên sự đảo lộn về thấp và táo. Tỳ ghét thấp nhưng do tỳ hư không vận hoá được
thuỷ thấp làm thuỷ thấp đình lại gây các chứng mệt mỏi, phù thũng, ỉa lỏng. Vị
ghét táo nhưng do vị hoả quá mạnh làm tân dịch bị khô gây nên vị âm hư có các
chứng táo bón, loét miệng, chảy máu chân răng...
4.2.3. Thận và bàng quang
Sự khí hoá ở
bàng quang tốt hay xấu đều dựa vào thận khí thịnh hay suy. Nếu thận kém sẽ gây
chứng di niệu, tiểu tiện không tự chủ, đái dầm...