2.8.1. Định nghĩa
Bổ pháp là
dùng các vị thuốc chữa các chứng bệnh do công năng hoạt động của cơ thể bị giảm
sút gây ra (gọi là chính khí hư).
Bổ pháp gồm
4 loại là: bổ âm, bổ dương bổ khí và bổ huyết.
2.8.2. Ứng dụng lãm sàng
a. Để chữa
các chứng bệnh gây ra do âm hư: người gầy, miệng khô, họng khô, ho khan hoặc ho
ra máu, triều nhiệt, ngũ tâm phiền nhiệt, ra mồ hôi trộm, gò má đỏ, mạch tế
sác...
Hay gặp ở
các bệnh: suy nhược thần kinh, cao huyết áp, rối loạn giao cảm do lao, di tinh,
đái dầm... Dùng bài thuốc Lục vị hoàn (Thục địa, Sơn thù, Hoài sơn, Trạch tả,
Đan bì, Phục linh) hay bài Tả quy hoàn (Thục địa, Sơn thù, Quy bản, Kỷ tử, Lộc
giác giao. Thỏ ty tử, Ngưu tát).
b. Bổ dương:
để chữa các chứng bệnh gây ra do thận dương hư: đau lưng mỏi gối, sợ lạnh, tay
chân lạnh, di tính, hoạt tinh, liệt dương, ỉa chảy, tiểu tiện nhiều lần. mạch
nhược. Dùng bài: Hữu quy hoàn, hoặc bài Bát vị hoàn (Thận khí hoàn).
c. Bỏ khí: để
chữa các chứng bệnh gây ra do khí hư; hơi thở ngắn gấp, mệt mỏi. ăn kém, chậm
tiêu, đi ỉa chảy, trương lực cơ giảm...
Hay gặp ở
các bệnh: suy nhược cơ thể, rối loạn tiêu hóa, các chứng bệnh do trương lực cơ
giảm: sa dạ dày, sa trực tràng, sa sinh dục... Dùng bài Tứ quân tử thang: (Bạch
truật, Phục linh, Cam thảo, Đảng sâm).
d. Bổ huyết:
để chữa các chứng bệnh gây ra do huyết hư, sắc mặt vàng héo, móng tay móng chân
khô. môi nhạt, rức đầu, chóng mặt, hoa mát kinh nguyệt ít, sác kinh nhạt...Hay
gặp ở các bệnh thiêu máu, phụ khoa, teo cơ cứng khớp...
2.8.3. Chú ý
Ngoài 4
phương pháp bổ đã nêu ở trên, người ta còn dùng các hình thức bổ khác như: bổ
trực tiếp vào tạng phủ hay được dùng với các loại thuốc dộng vật. Bổ tạng phủ
theo cơ chế ngũ hành tương sinh như phế hư thì kiện tỳ vì tỳ thổ sinh phế kim.
Khi dùng
phép bổ bao giờ cũng chú ý đến công năng của tỳ vị, vì tỳ vị thuộc thổ sinh ra
tất cả. nếu tỳ vị hoạt động tốt thì uống thuốc và ăn uống mới hấp thu dược.
Trên dây dã
trình bày tám phương pháp dùng thuốc trong đơn thuần từng phương pháp, nhưng
trên lâm sàng, các chứng bệnh nhiều khi phôi hợp với nhau, lẫn lộn giữa biểu
lý, hư thực, hàn nhiệt, tạng phủ nên khi sử dụng thuốc phải phối hợp các phương
pháp VỚI nhau. Sau đây nêu lên những phương pháp phối hợp hay gặp để làm thí dụ.
a. Hãn hạ
cùng dùng: như bài thuốc Quế chi thang gia Đại hoàng (Quế chi, Bạch thược, Cam
thảo. Sinh khương, Đại táo, Đại hoàng) để chữa các chứng sợ giỏ. phát nóng đau
đầu (thuộc biểu), kèm thêm bụng đầy, cứng, đau, táo bón (thuộc lý).
b. Ôn thanh
cùng dùng: để chữa các chứng bệnh trên nhiệt dưới hàn. hay trên hàn dưới nhiệt,
hàn nhiệt lẫn lộn như bài Lý liên thang (Hoàng liên, Nhân sâm, Can khương. Bạch
truật, Cam thảo).
c. Gặp ở các
người thể chất hư mắc bệnh cấp tính hoặc bệnh cấp tính điễn biến gây các tình
trạng hư chứng trong cơ thể (như sốt cao gây mất nước, tân dịch...) như bài
Thanh dinh thang (Liên kiều, Hoàng liên, Đan sâm, Trúc diệp, Kim ngân để thanh
nhiệt giải độc; Huyền sâm, Sinh địa, Mạch môn, Tê giác để dưỡng âm sinh tân).
Đào thị hoàng long thang (Đại hoàng, Mang tiêu là thuốc hạ; Đương quy. Nhân sâm
là thuốc bổ) là phương thuốc hạ bổ cùng dùng. Chỉ thực tiêu bĩ hoàn: (Chỉ thực,
Hậu phác, Bán hạ là thuốc tiêu bĩ thông trệ; Nhân sâm, Bạch truật là thuốc kiện
tỳ) là phương thuốc tiêu bổ cùng dùng.