Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

2.1. Hãn pháp (làm cho ra mồ hôi)



2.1.1. Định nghĩa

Hãn pháp là dùng các thuốc cho ra mồ hôi tạo thành bài thuốc để đưa tà khí ra ngoài, chỉ dùng khi bệnh còn ở biểu không cho truyền bệnh vào trong (lý).

2.1.2. Ứng dụng lăm sàng

Dùng hãn pháp để chữa các bệnh sau:

a. Ngoại cảm phong hàn:

Cảm mạo phong hàn: sợ rét, nóng ít, miệng không khát, rêu lưỡi trắng, mạch phù, dùng các thuốc tân ôn giải biểu như quế chi, tía tô, gừng... Trong chứng cảm mạo phong hàn có hai loại: có mồ hôi, mạch phù nhược gọi là biểu hư dùng bài Quế chi thang (Quế chi, Bạch thược, Gừng tươi, Đại táo, Cam thảo), không có mồ hôi mạch phù khẩn gọi là biểu thực dùng bài Ma hoàng thang (Ma hoàng, Quế chi, Hạnh nhân, Cam thảo).

Các bệnh đau dây thần kinh ngoại biên, co cứng các cơ do lạnh: đau vai gáy, đau lưng, liệt dây VII ngoại biên ...

DỊ ứng nổi ban do lạnh, viêm mũi dị ứng...

b. Ngoại cảm phong nhiệt:

Cảm mạo có sốt, giai đoạn đầu viêm long khởi phát của các bệnh truyền nhiễm (phần vệ của ôn bệnh) có các triệu chứng: sốt nhiều, sợ lạnh ít, khát, rêu lưỡi vàng, mạch phù sác. Dùng các thuốc tân lương giải biểu để chữa như Bạc hà, Lá dâu, Hoa cúc, Rễ sắn dây... các bài thuốc như Ngân kiều tán (Kim ngân hoa, Liên kiều, Trúc diệp, Đậu xị. Cát cánh, Bạc hà, Ngưu bàng tử, Lô căn).

Viêm màng tiếp hợp cấp theo mùa, siêu vi trùng...

c. Ngoại cảm phong thấp:

Viêm khớp dạng thấp, viêm khớp cấp, đau dây thần kinh ngoại biên, dùng các thuốc phát tán phong thấp như Hy thiêm, Ké đầu ngựa, Thổ phục linh, Thiên niên kiện ...

d. Bệnh phong thủy:

Viêm cầu thận cấp dị ứng do lạnh, có hiện tượng phù từ lưng trở lên kèm theo sốt, sợ lạnh, suyễn, viêm họng.... Thường dùng bài Việt tỳ thang (Ma hoàng, Thạch cao, Sinh khương, Cam thảo, Đại táo).

e. Bệnh sởi lúc chưa mọc ban thường dùng các vị thuốc như Bạc hà, Kinh giới. Lá dâu... để thúc mọc ban.

2.1.3. Chú ý

- Không được dùng phép hãn khi ỉa chảy, nôn, mất nước...

- Mùa hè không nên cho ra mồ hôi nhiều, sợ mất nước gây trụy mạch.

- Khi bệnh xuất hiện ở biểu và lý cùng một lúc, thì vừa dùng phép phát hãn để giải biểu vừa dùng phép chữa bệnh ở lý. Như âm hư vừa có biểu chứng thì vừa bổ âm vừa giải biểu (phần này sẽ nói rõ ở chương các bài thuốc giải biểu).

Lưu trữ Blog