Thứ Năm, 4 tháng 12, 2014

Bài 16: đơn thuốc trị phong thấp.

Đơn thuốc rượu trị phong thấp

 (trích trong quyển Bách Gia Trân Tàng/ Y Tông Tâm Lĩnh)

Chữa chứng phong thấp xâm phạm vào xương tuỷ, mạch máu đọng lại, khắp mình tê đau, eo lưng đầu gối nhức đau, gáy và xương sống cứng đờ, tay chân tê dại run giật  (nan hoán), bán thân bất toại, và chứng tê thấp thuỷ thũng của đàn bà. Khoảng niên hiệu Chính hoà  (đời Lê), người nhà vua bị đau, Ngự y chữa không khỏi, có một người dâng phương thuốc này, uống vào có công hiệu ngay, được nhà vua thưởng bạc nén 50 lạng, rồi phổ biến phương thuốc này,  (quan ngự sử là Ngọc lặc dùng chữa người nhà quả hiệu nghiệm)

- Rễ Gắm , vị đắng, bình chữa chứng tê vì hàn thấp, lại có thể bổ hư tổn 3 lạng  (sao).

- Cây Chân chim vị cay đắng, tiêu thuỷ, hạ đờm=2,5 lạng  (sao).

- Rễ Rung rúc ,vị đắng, tính hàn, tiêu đờm, hoạt huyết= 2 lạng  (sao).

- Rễ cay Bươm bướm,vị đắng, tính ôn, tiêu đờm= 1,5 lạng  (sao).

- Rễ Chiêng chiếng, vị đắng, tính hàn=1,5 lạng  (sao)

- Bảo Đương quy, vị đắng tính ôn, hoạt huyết=1 lạng

- Ô dước, vị đắng, tính ôn,chữa khí trướng= 1 lạng

- Cây Mấn đỏ, vị ngọt, tính bình= 1 lạng.

- Rễ Mấn trắng =1 lạng sao,  (đàn ông dùng Mấn đỏ, đàn bà dùng Mấn trắng)

- Rễ Cỏ xước, tính bình, vị chua, chữa chứng thấp ở hạ tiêu, rửa sạch sao= 1 lạng.

- Rễ Bưởi bung vị cay, tính nóng,chữa hàn thấp sao = 1 lạng.

- Rễ Cỏ chỉ vị cay, tính ôn, tiêu thuỷ = 2 lạng.

- Cỏ roi ngựa vị ngọt, tính hàn sao=6 đồng cân.

- Rễ cỏ Chỉ thiên vị ngọt, tính hàn, tiêu thấp hạ đờm= 6 đồng cân.

- Tàm gửi cây Dâu vị ngọt đắng, chữa chứng choáng váng vì phong tý = 1 lạng.

Bản khác không có những vị Tang ký sinh, Tiền hồ, rễ Gắm, Chiêng chiếng, có những vị Bạc sau, Hy thiêm, Nụ áo, Ngò đất, chữa chứng phong thống.

Những vị thuốc trên đây thái nhỏ, đùm vào trong túi vải cho vào hũ rượu, lấy đất trét kín miệng, nấu lên cháy hết một nén hương, rồi chôn xuống đất 3 ngày đêm, tuỳ sức uống khi đói.

Gia giảm

- Hàn thấp thêm quế chi, Can khương  (đều 1 lạng), bỏ Cỏ roi ngựa, Tiền hồ, Kim anh.

- Trướng đầy thêm Hương phụ, Mộc hương, bỏ Tiền hồ, rễ Cỏ chỉ.

- Thuỷ thũng cước khí thêm Mộc qua, Đại phúc bì.

- Có đờm đau gia Bán hạ, Trần bì.

- Người yếu thuộc hư : bớt những vị tiêu đạo, bội Đương quy và rễ Gắm.

- Phong tý : thêm Hy thiêm thảo, Hạc sắt thảo, Điền khổ thái  (rau Đắng đất).

- Huyết phong đau nhức: thêm Cốt toái bổ  (cây Tổ rồng).

- Phong ở đầu: thêm Quán chúng  (củ rau Ráng).

- Tê lạnh thuộc chứng hư lao: thêm Thạch hộc, Phúc bồn tử.

- Tê khắp cả mình: thêm Thương truật, Thương nhĩ  (quả hay lá).

- Phong sang ở đầu mặt, ngứa ngáy khắp mình thêm Hà thủ ô  (9 lần đồ, 9 lần phơi)= 1,5 lạng.

- Gân co vì phong thấp, thêm Tường vi căn=1,5 lạng.

Theo đúng phương thuốc và gia giảm như trên, rất có công hiệu.

Nhận xét

Xuất xứ sử dụng đơn thuốc: năm 1994, sau khi châm cứu cho một bệnh nhân vào khoảng 1 tháng chỉ đỡ nhiều, chạy linh tinh chứ không khỏi, tôi đã quyết định đưa đơn thuốc này vào sử dụng, mặc dù lúc này kiến thức còn rất hạn hẹp, sau khi uống được 1 ngày bệnh đau thần kinh toạ đỡ hẳn 50%, tiếp 2 ngày nữa bệnh khỏi hẳn. Sau đó vận dụng cho các bệnh nhân khác kết quả đều rất cao, nhưng về sau này thì đơn không phát huy được kết quả nhiều nữa bởi sau này bệnh mãn tính nhiều dần lên, phải phối hợp thì mới lại có kết quả được. Thành phần của đơn cũng không thể đủ được, tuy nhiên có thể thay thế cũng rất tốt.

1- Thành phần: đây là đơn mang tính chất khu phong , hoạt huyết, tiêu đờm, lợi thấp, hành khí. Bổ ít , tả nhiều, trong đó thiên về lợi thấp.

2- Đơn có tác dụng rất tốt với bệnh Thần kinh toạ  (có thể nói đây là đơn đặc trị), thể cấp tính, mức độ không nặng lắm.  (do bệnh ở nửa dưới của cơ thể nên lợi thấp là chính).

3- Nhược điểm : chỉ dùng bằng cách ngâm rượu, sắc không có tác dụng  (nếu ngâm nước nóng già cũng có tác dụng).

4- Phối hợp : Nếu bệnh đã lâu ngày thì phải phối hợp đơn thuốc Thận.

5- Tác dụng thực tế:

- Một ca bệnh cấp tính, đau nhiều đã 2-3 ngày, đi lại phải dìu hay chống gậy, cơ thể khoẻ mạnh, huyết áp hơi tăng, đã được cho dùng đơn này nhưng gia thêm đại bổ âm, sau uông 1 ngày đã giảm rất nhiều, sau một thời gian ngắn bệnh khỏi.

- Một ca gầy khoẻ, bệnh cũng vẫn còn là cấp tính, sau khi uống vài ngày có biểu hiện đau tăng lên, đã gia thêm Hoàng bá, Tri mẫu , cũng ổn .

- Một ca nữa sau khi uống bệnh giảm ngay, rõ nhưng sang ngày thứ 3 thì lại đau như lúc ban đầu, đã chuyển dùng đơn Lục vị, được 10 ngày thì lại dùng lại đơn thuốc trên thì kết quả rất tốt.

- Một bệnh nhân khác bị tê bì cấp , đã được dùng đơn này nhưng gia thêm Thương truật, Thương nhĩ  (như trong đơn đã nói) thì khỏi ngay.

Loạt bài Điều trị đông y của thành viên loccoc1368 trên http://diendanykhoa.com

Bài 15: kinh nghiệm lâm sàng:một bất cập khi điều trị

Bệnh nhân cụ thể:

1-Bệnh nhân nữ, 52 tuổi, bệnh đã hơn 1 tháng, bị nhiều ổ viêm loét cấp tính ở dạ dày,đã được điều trị lần 1 khoảng 15 ngày, sau khi nghỉ vài ngày lại được tiếp tục điều trị đều bằng phương pháp nội khoa trong đó có tiêm tĩnh mạch Kháng sinh liều cao, cấp tập, bệnh cũng đã giảm tới 70%. Khi được 7 ngày thì tôi vào thăm, bệnh nhân nói 2 ngày nay thấy mệt mỏi nhiều, tôi nói ngay rằng phải tìm cách dừng ngay không điều trị nữa, nhưng bệnh nhân có lẽ vì lý do nào đấy đã không thực hiện được theo lời tôi và chỉ sau đó 3 ngày thì bệnh lại vượng lên còn đau hơn cả lúc mới vào. Lúc này thì bệnh nhân mới ra viện và về nhà uống thuốc nam.

2- Bệnh nhân nam 50 tuổi, bị viêm tắc mạch máu đã vài năm, mỗi năm cứ đến mùa đông thì lại phát bệnh, sưng đỏ đau các đầu ngón tay chân, đã điều trị nhiều lần ở bệnh viện trung ương lẫn địa phương nhưng bệnh chưa đến mức phải cắt cụt ngón tay chân. Lần này vào chỗ tôi thì ngoài sưng đau bệnh nhân còn có rỉ ít nước mô ở chân móng tay. Khi điều trị được khoảng hơn chục ngày bệnh đã giảm đi 70%, đến hôm thứ 6 trong tuần thì có một người gặp bệnh nhân ngay ngoài cửa phòng tôi và giới thiệu có một ông lang chữa bệnh viêm tắc mạch máu rất tốt ở Lạng sơn, đã cho bệnh nhân địa chỉ cụ thể, đến 2 ngày nghỉ cuối tuần thì bệnh nhân tự đi đến địa chỉ đó và cắt mấy thang thuốc mang về nhà uống ngay từ hôm thứ 7. Hôm thứ hai đầu tuần đi làm, bệnh nhân gặp tôi và cho biết kết quả rất tốt, đã giảm đau nhiều, tôi chỉ cười và bảo rằng: cẩn thận đấy, nên dừng lại ngay, nhưng bệnh nhân không nghe lời tôi, và bệnh nhân cũng xin ra viện luôn. Vài hôm sau bệnh nhân lại lên gặp tôi nhưng lần này thì đã vào khoa Ngoại và đã băng trắng ở bàn chân, đi thì tập tễnh, bệnh nhân có đưa cho tôi cacvisit của ông Lang kia nhưng tôi cười và bảo rằng bệnh nhân giữ mà làm kỷ niệm.

Hai trường hợp trên là một ví dụ cụ thể cho thây là đã có sự sai lầm về điều trị, sai lầm ở đây được hiểu theo khía cạnh sau: theo nguyên tắc điều trị chung  (như tôi đã nói ở bài viết “ điều trị đông y: giá trị điều trị theo giai đoạn”) khi dùng thuốc công phạt liều cao lúc đầu tác dụng rất tốt nhưng khi đến một lúc nào đó bệnh đã đỡ rồi nhưng không tiếp tục giảm nữa thì lập tức phải dừng ngay, nếu dùng nữa sẽ làm cho cơ thể mỏi mệt, nếu cứ tiếp nữa thì cơ thể sẽ phản ứng lại làm bệnh sẽ lại tăng lên, vì thuốc lúc này không còn tác dụng nữa nên phải đổi sang đơn thuốc khác cho phù hợp với giai đoạn tiếp sau của bệnh thì mới tốt được,  (nhưng ngnuyên tắc này chỉ có Đông y mới có) .

Một nguyên tắc nữa của điều trị là sau công phạt rồi phải bổ, vì sau khi công phạt bao giờ nguyên khí cũng bị tổn thương, biểu hiện là mỏi mệt, lúc này phần Âm đã bị ảnh hưởng nên phải bổ âm đã, sau khi bổ, nguyên khí đã hồi phục mới tiếp tục công phạt được,như vậy bệnh tiến triển sẽ tốt hơn.

Một kinh nghiệm rút ra là khi bệnh nhân đến với chúng ta sau khi đã uống thuốc ở đâu đó mà không khỏi thì tức là họ đã công phạt rồi, chúng ta chỉ việc bổ thôi  (đa phần là như vậy).

Thông thường ai chả muốn bệnh khỏi nhanh cho dù là thày thuốc hay bệnh nhân cũng đều muốn như thế , nhưng thực tế do có nhiều nhiều yếu tố bất cập nên bệnh không khỏi được. Nếu như áp dụng được những nguyên tắc của điều trị Đông y vào điều trị thì chắc kết quả sẽ cao hơn nhiều.

Loạt bài Điều trị đông y của thành viên loccoc1368 trên http://diendanykhoa.com