Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

Đông y trị chứng ra mồ hôi

posted by maithang0102 (Hội Viên)
on October , 25 2012




Em thì thấy mình có cả 2 tự hãn và đạo hãn:

-Ra mồ hôi trộm, thường về đêm, khi đi ngủ.trên chán, ngực, mặt,lưng nhưng mặt là nhìu nhất

-Ra mồ hôi nhiều thường rất khó chịu, ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt hàng ngày, thậm chí không thể làm gì được vì cả ngày mồ hôi đầm đìa.

-Đau ở thắt lưng sau hình như đó là đau thận

-Không chịu được lạnh quá và nóng wá

-Da khô hơi vàng, tóc khô

-Nhiều khi tim đập nhanh hay hôi hộp thi mồ hôi tự ra nhiều.

Em đọc trên mạng thì nói bị cường giao cảm gì đó

Địa chỉ cuả mấy thầy hay trên diễn đàn sao em không thấy đề cập đến cho mọi người biết.

Có gì THẦY hỏi rùi em tlời thêm.Mong các thầy bắt bệnh giùm em

TRÂN TRỌNG

Replied by quangthong02 (Hội Viên)
on 2012-10-25 02:55:09


Chào Maithang0102!

Chứng Tự hãn, Đạo hãn, chỉ là hai trong 3 chứng gồm: Đạo hãn, Tự hãn, Và tâm hãn. Chứng tự hãn là mồ hôi đột ngột tuôn trào bất cứ lúc nào, cả ngày hoặc đêm; chứng đạo hãn là mồ hôi tuôn ra khi ngủ, ngưng lại khi thức (vì vậy mới gọi là Đạo hãn, nghĩa là mồ hôi trộm, có khi gọi là "Tẩm hãn"(không phải tâm hãn)).

Nguyên nhân tự hãn và đạo hãn là do Âm Dương thất điều, tấu lý không kín đáo, khiến mồ hôi bài tiết thất thường.

Cần phân biệt rõ Tự hãn, Đạo hãn, với các chứng Thoát hãn, Chiến hãn, Hoàng hãn.

Trong Đông y, các chứng trên đều nằm trong phạm vi hãn chứng. Được chia thành các thể:

1- Phế vệ bất cố (Phế khí không kín đáo, vệ khí bất túc).

Triệu chứng: Ra mồ hôi, sợ gió, động làm việc là ra mồ hôi, dễ bị cảm mạo, thân thể thường mệt mỏi, sắc mặt không tươi, mạch tế, nhược; rêu lưỡi trắng.

2 - Doanh vệ bất hòa (tà khí thâm nhập, khiến doanh vệ)

Đại diện cho hai thể của âm và dương (doanh đi trong máu, vệ đi ngoài tấu lý bì phu - doanh hành mạch trung, vệ hành mạch ngoại)rối loạn, không kết hợp được với nhau).

Triệu chứng: ra nhiều mồ hôi, sợ gió. khắp người nhức mỏi, lúc lạnh lúc nóng, hoặc ra mồ hôi ở nửa thân người, hay một vùng nào đó. Rêu lưỡi trắng, mỏng. Mạch hoãn.

3 - Tâm huyết bất túc (ngày nay tây y gọi là thiếu máu cơ tim).

Triệu chứng: ra nhiều mồ hôi, thường giật mình ít ngủ, tinh thần uể oải, thở ngắn, sắc mặt không tươi, rêu lưỡi mỏng. Mạch tế, nhược.

4 - Âm hư hỏa vượng

Triệu chứng: đêm nằm ra mồ hôi, lòng bàn tay, lòng bàn chân, lồng ngực nóng, khó chịu, hoặc ngoài da nóng về chiều, gò má thỉnh thoảng đỏ, hoặc thường đỏ, miệng khát, lưỡi sắc hồng, ít rêu, mạch tế sác.

5 - Tà nhiệt uất chưng (cảm phải nhiệt tà bên ngoài, đi vào bên trong không ra được, uất bên trong mà thúc tân dịch (mồ hôi) đi ra ngoài).
Triệu chứng: nóng hâm hấp ra mồ hôi, mồ hôi dễ khiến quần áo có sắc vàng, sắc mặt nóng đỏ, phiến táo khát nước, miệng đắng, tiểu tiện sắc vàng, rêu lưỡi mòng vàng, mạch huyền sác.

Phạm vi bệnh của em thuộc thể Tâm Huyết Bất Túc. Em dùng Quy Tỳ Thang, gia Ngũ vị 8g, Phù tiểu mạch 10g, Mẫu lệ 24g, Kỷ tử 10g, Thục địa 14g.

Ngoài các phạm vi kể trên, tôi còn rút ra thêm một kinh nghiệm. Đó là chứng mồ hôi trộm và tự hãn, nhưng dùng các phương trên chữa không hết, theo Vương Thanh Nhậm (trước tác sách Y Lâm Cải Thác)thì ông cho rằng đó là do huyết ứ, ông cho dùng Huyết Phủ Trục Ứ Thang. Đúng là dùng thang này thì hết, nhưng ngưng thuốc 10 hôm sau thì phát lại, điều trị 3 lần như vậy nhưng vẫn không thuyên giảm. Sau ngẫm nghĩ lại thấy, Vương Thanh Nhậm chỉ đánh giá bệnh theo thực tế, mà không biết rằng tâm huyết bất túc nên mới có huyết ứ. Do vậy tôi chuyển dùng Đào Nhân Hồng Hoa Tiễn thì dứt hẳn mồ hôi, những bệnh nhân đó nhiều nằm về sau không thấy tái phát bệnh trở lại nữa.

tên cho chứng này là "Niệu hãn". Có một bệnh nhân mắc chứng tự hãn, đạo hãn. Có các triệu chứng mỗi khi tự hãn và đạo hãn thì mồ hôi tuôn ra như vừa dội nước xong, cầu bón, không mắc tiểu, mỗi khi đi tiểu là do bụng dưới căng tức mới đi được, sắc tiểu đỏ, mạch hoãn, rêu lưỡi trắng dày, chất nhuận, sắc đỏ hồng. Đặc biệt, mùi mồ hôi khai hệt như mùi nước tiểu.


Tôi biện chứng, nguyên nhân do Thận khí khuy hư, không khí hóa thủy dịch, phế khí bất túc không hỗ trợ được cho thận, bệnh ở thận thuộc tử bệnh phạm mẫu. Phế thận như một cái lọ, nếu phế khí bất túc cũng như lọ bị bịt kín miệng chai khiến dù cho đít chai có lổ thì nước vẫn không chảy được, chỉ cần rút nút chai thì lập tức nước sẽ chảy ra được theo lổ bên dưới. Do cơ chế đó nên niệu dịch đi ngược lên Phế mà qua da lông (phế chủ bì mao) sinh ra chứng tự hãn trên. Tôi cho dùng nguyên phương Kim Quỹ Thận Khí Hoàn, chỉ vài hôm sau mọi việc lại trở lại bình thường như chưa hề có bệnh.

Thông qua việc tư vấn cho Maithang, tôi chia sẽ thêm một ít kinh nghiệm điều chứng này cho các bạn trẻ đang học Đông y cùng tham khảo. Nếu có ý kiến nào hay, xin mọi người cùng chia sẻ với nhau.

Thân ái!
Trần Quang Thống.




Nguồn: https://www.yhoccotruyen.org/ViewTopic.jsp?tid=4896&fid=1&Page=1&trp=10&ttp=null

Thứ Hai, 16 tháng 3, 2015

So sánh bài KIM QUỸ THẬN KHÍ HOÀN và BÁT VỊ QUẾ PHỤ #2

Replied by Nguyen_Dung (Hội Viên)
on 2012-05-16 08:03:23



Lại nói về bài Bát vị quế phụ và Kim quỹ thận khí hoàn.

Theo như thầy nói Bát vị quế phụ thì dùng chữa dương hư nặng mà có thực hàn, còn Kim quỹ thận khí thì dùng cho thận dương hư không có thực hàn.

Mà hư thì phải bổ, thực thì phải tả. Như vậy nếu nói về công năng tư bổ thì Thục địa tốt hơn Sinh địa, Quế nhục tốt hơn Quế chi. Nếu vậy đổi lại bài Kim Quỹ Thận Khí để chữa chứng dương hư thực hàn, còn Bát vị Quế Phụ thì chữa dương hư ko có thực hàn thì hợp lý hơn chăng?

"Quế chi thì có công năng phát tán mạnh, phát hãn giải biểu, đi vào kinh Tâm, Phế, Bàng Quang.

Nhục Quế thì đi vào kinh Tỳ, Thận, Tâm, bổ hỏa trợ dương dẫn hỏa quy nguyên."

Như vậy tôi thấy bài Kim Quỹ Thận khí thì có tính tả mạnh, tính bổ kém hơn so với bài Bát vị Quế phụ. Cũng như trong bài trên thầy nói, thời xưa con người phải dầm sương dãi nắng, điều kiện không như thời nay cho nên dễ bị phong hàn xâm nhập, tổn thương chính khí nên người xưa bày ra bài Kim Quỹ Thận Khí. Còn thời nay thì theo các sách tôi đọc (đa phần là sách Tiếng Việt vì tôi không biết tiếng Hán, tiếng Trung, quả là thiệt thòi) thì đều chủ yếu dùng Thục địa thay Sinh địa, Quế nhục thay quế chi để mạnh về pháp tư bổ thận âm thận dương (thậm chí cả các sách giáo khoa dành cho các SV trường Y Học Cổ Truyền chính quy do các giáo sư đầu ngành viết). Vì vậy vẫn chưa được rõ ràng cho lắm.



Replied by quangthong02 (Hội Viên)
on 2012-05-16 13:15:38



NguyenDung nói không sai chút nào. Bai bài này khác nhau ở chỗ bổ tả. Vì mọi người chưa quen dung hòa giữa hai chữ Vương đạo và Bá đạo, nên tôi không tiện dùng. Thật ra bài Kim Quỹ Thận Khí Hoàn có công năng của bá đạo; Quế Phụ Bát Vị có công năng của Vương Đạo. Trên lâm sàng linh động mà dùng thôi.

Ở tạng Thận không có biểu chứng, vì vậy, thực hàn ở đây nghĩa là Lý thực hàn, do dương hư, hàn thịnh. Vì vậy cần dùng nhục quế có tính đại nhiệt để xua tan hàn khí, dẫn hỏa quy nguyên; dùng Thục địa để ôn bổ âm huyết âm tinh. Thực hàn trong trường hợp này là chân âm thịnh, mà đã là chân âm thì đó là cái vốn tự có của cơ thể, không được làm tổn thương đến nó, do đó không thể tả được.

Còn ở chứng hư hàn thì do thận dương hư là chính, dương khí không ôn ấm quan tiết chi thể, khiến người dễ nhiễm lạnh mà sinh cảm mạo, dương khí hư không ôn ấm cho huyết mạch khiến huyết mạch ngưng trệ, thận khí hư khiến bàng quang đóng mở rối loạn mà sinh tiểu rắt, tiểu buốt, tiểu liên tục. vì vậy, trong chứng này, cần dùng sinh địa để vừa có tính năng như thục địa, lại vừa đi vào kinh tâm để vừa dưỡng huyết, đồng thời hỗ trợ cho Quế chi thông tâm mạch (tâm chủ mạch, chủ quản huyết, huyết ngưng thì tâm mạch ứ trở). Quế chi di chuyển theo chiều ngang và dọc, để thông dương hóa khí, giúp Phế túc giáng, bàng quang khí hóa(nhục quế không vào được bàng quang và Phế, vì vậy không có tác dụng ôn dương khí hóa, mà chỉ có tác dụng theo chiều dọc là dẫn hỏa quy nguyên).

Như vậy có thể thấy, một chứng thì dương hư cực, rời khỏi âm mà đi về nơi của mình (bên trên); một chứng thì dương hư, không ôn ấm huyết mạch chi thể. Hai chứng này cũng là dương hư, nhưng một cái thực, một cái hư. Cái thực là thực nguyên âm, hư nguyên dương; cái hư là hư nguyên dương, nhưng nguyên âm vẫn còn.

Vì vậy, khi chứng thận dương hư không có thực hàn, nếu dùng bài Quế Phục Bát Vị, nguyên âm tổn thương, sẽ khiến cho Phụ tử dư thừa lực mà gây ngộ độc; còn thận dương hư mà có thực hàn, thì không thể dùng dùng Kim Quỹ Thận Khí, mà phải dùng đến bát vị.

Như tôi đã nói ở trên, Về sau bài Quế Phụ Bát Vị xuất hiện trong sách Y Tông Kim Giám thì hậu thế bắt đầu ứng dụng. Còn trước kia, trong sách Thương Hàn Luận, chứng này thường dùng Tứ Nghịch Thang, hoặc tùy trường hợp mà dùng các phương khác, nhưng phương nào cũng có Phụ tử.

Thuốc quý ở chỗ dùng đúng lúc; phép trị hay ở chỗ trị đúng thời. Nhục quế, hay Quế chi; Thục địa, hay Sinh địa khi dùng đúng lúc thì đều quý. Phép trị dù là Vương đạo, hay Bá đạo, nếu trị đúng thời thì đều thiện y.

Cảm Ơn Nguyendung rất nhiều vì đã đặt một câu hỏi rất hay. Nếu thấy còn chỗ nào chưa mãn ý, bạn cứ truy cho đến cùng nhé. Tôi rất thích cách đặt vấn đề rất sâu sắc của NguyenDung.

Chào thân ái!

Trần Quang Thống.

Xem thêm:

Hai bài thuốc nổi tiếng của Trương Trọng Cảnh... Đọc thêm tại

Trong giới y học cổ truyền Việt Nam chắc không ai là không biết, không thuộc hai bài thuốc cổ phương Bát vị và Lục vị, một bài đại diện cho chứng âm hư, một bài đại diện cho chứng dương hư...

Trong giới y học cổ truyền Việt Nam chắc không ai là không biết, không thuộc hai bài thuốc cổ phương Bát vị và Lục vị, một bài đại diện cho chứng âm hư, một bài đại diện cho chứng dương hư. Nhưng xuất xứ 2 bài thuốc thì chưa chắc ai cũng biết. Vậy 2 bài thuốc cổ phương này ra đời trong hoàn cảnh nào?

Năm 2006 trước Công nguyên thời Tây Hán, Hán Vũ Đế tên thật là Lưu Triệt, sách sử ghi rằng Lưu Triệt muốn cho mình khỏe mạnh, cải lão hoàn đồng nên đã uống nhiều “đan sa”, biến chứng phát sốt dữ dội, khát nước nhiều, đi tiểu liên tục mà không thuốc nào chữa khỏi. Trương Trọng Cảnh bấy giờ là đại phu chữa bệnh cho Lưu Triệt đã nghĩ ra hai phương thuốc: bát vị và lục vị. Nhờ thế mà nhà vua đã khỏi bệnh. Nguyên văn hai bài thuốc như sau:

Bài thuốc Bát vị quế phụ:

Thục địa 8 chỉ, hoài sơn 4 chỉ, sơn thù 4 chỉ, đan bì 3 chỉ, trạch tả 3 chỉ, bạch linh 3 chỉ, quan quế 1 chỉ, phụ tử 1 chỉ.

Tất cả 8 vị thuốc tốt nên gọi là bát vị.

Cách sao tẩm như sau: Thục địa thứ tốt tẩm gừng tươi sao khô. Hoài sơn tẩm nước cơm sao khô. Sơn thù bỏ hạt, tẩm rượu sao khô. Trạch tả tẩm nước muối loãng sao khô. Bạch linh tẩm sữa con so sao khô. Phụ tử đã chế mới đem dùng.

Chủ trị: Chân thận hỏa hư, chân thủy vượng làm cho mỏi mệt. Hạ bộ hàn lãnh, đau lưng, mỏi gối, lưng lạnh, đái đêm nhiều. Đại tiện phân lỏng, bần thần nặng đầu, hay quên, lừ đừ, ngái ngủ.

Bài thuốc tồn tại cho tới ngày nay đã hơn 2000 năm. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác khi xưa đánh giá rất cao bài bát vị và đã dùng bài thuốc này chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Ông dùng bài “bát vị” làm xương sống, căn cứ vào chứng mà gia giảm. Sau đây là phép gia giảm của Hải Thượng Lãn Ông:

Tạng thận yếu mà đi lị lâu tăng vị thang ma, phá cố chỉ đều 2 chỉ (2 chỉ = 3,75g).

Mạch xích 2 bên hồng mà sác là chân âm kém, bội quế, phụ tử lên 2 chỉ.

Mạch bổ bên trái vô lực là khí, tạng can suy nhược, bội sơn thù lên 3 chỉ.

Mạch bổ quan bên phải vô lực là tỳ vị hư yếu, bội phục linh, trạch tả lên 2 chỉ.

Hỏa dạ dày quá mạnh mà thành hoàng đản, sốt về chiều, miệng lở, chóng đói, bội mẫu đơn.

Khí dạ dày yếu mà lạnh (hư hàn), đầy trướng, sôi bụng bội phục linh, trạch tả lên 2 chỉ, lại bội quế, phụ tử thêm 1 chỉ. Dương suy, tinh kém thêm lộc nhung, tử hà sa. Tạng thận yếu không đem được nguyên khí về chỗ, đi tiểu nhiều, thở suyễn, nôn ọe bội ngũ vị tử, ngưu tất.

Bài lục vị:

Trương Trọng Cảnh dùng bài “bát vị” nhưng bỏ đi 2 vị quế và phụ tử. Còn lại 6 vị gọi là bài “lục vị”.

Bài thuốc: Hoài sơn 4 chỉ, thục địa 8 chỉ, sơn thù 4 chỉ, đan bì 3 chỉ, trạch tả 3 chỉ, bạch linh 3 chỉ.

Chủ trị: Thận thủy suy kém, tinh khô, huyết kiệt đau lưng, mỏi gối, di tinh, khát nhiều, đái rắt, can thận suy yếu, hoa mắt, chóng mặt, phát sốt, nóng âm, da, tóc khô xỉn, mắt mũi nám đen, lưỡi khô ráo khát. Đối với phụ nữ nhan sắc ngày càng tàn tạ, nóng nảy, các chứng trẻ em chậm biết đi, tóc mọc chậm, chậm biết nói...

Phép gia giảm của Hải Thượng Lãn Ông:

Người gầy đen, khô táo thêm thục địa, bớt trạch tả.

Tính nóng nảy, hay cáu giận bớt sơn thù thêm đan bì, bạch thược, sài hồ mỗi vị 2 chỉ.

Lưng mỏi thêm đậu trọng tẩm muối sao.

Tì vị hư yếu, ăn ít mà ngoài da lại khô xỉn tăng hoài sơn.

Chứng đại đầu thống (nhức đầu quá mạnh), nếu người bệnh yếu lắm không nên dùng nhiều thuốc lạnh, mát mà chỉ nên dùng lục vị nhưng bội thêm thục địa, mẫu đơn bì, trạch tả, huyền sâm, ngưu tất mỗi vị 3 chỉ. Nếu hỏa quá mạnh thêm tri mẫu, hoàng bá mỗi vị 2 chỉ.

Phụ nữ huyết khô, kinh bế, thiếu máu, xây xẩm ăn kém thêm xuyên quy, bạch chỉ mỗi vị 2 chỉ, quế tốt 1 chỉ.

Chứng bạc đầu, rụng tóc thêm hà thủ ô 2 chỉ nhưng phải uống cho nhiều (vài chục thang) có thể hồi xuân.

Mờ mắt thêm kỷ tử, cúc hoa, sài hồ, mỗi vị 2 chỉ.

Hải Thượng Lãn Ông nói: Tôi kinh nghiệm hằng 30 năm, chữa khỏi được nhiều bệnh trầm trọng, cũng chỉ căn cứ vào 2 khiếu âm và dương, cũng chỉ trông vào 2 bài “bổ thủy và bổ hỏa” (bát vị và lục vị) khác biệt với các thầy khác mà thôi! Vậy thủy hỏa là căn bản để sinh ra con người, nhưng thủy là chân của hỏa cho nên phải tương giao mà không lìa được nhau. Lại phải quân bình mà không bên nào được hơn lên. Tính của hỏa bốc lên thì phải đem trở xuống. Tính của thủy nhuận xuống thì phải đem trở lên. Hỏa ở trên, thủy ở dưới gọi là tương giao tức thủy hỏa ký tế (nước và lửa đã làm xong việc). Hỏa ấy gọi là dương khí, thủy ấy gọi là âm khí, 2 bên cần phải có nhau, dựa vào nhau thì gọi là âm dương hòa bình.

Người nào chân âm của tạng thận không đầy đủ tức bổ mạch xích bên trái hư yếu, đi tế, sác thời dùng bài “lục vị”.

Còn người nào chân dương không đầy đủ, tức hỏa mệnh môn không được đầy, bổ mạch xích bên phải đi tế, sác thì dùng bài “bát vị”.

Hải Thượng Lãn Ông nói thêm: Xem như thế mới biết bách bệnh đều bởi hư yếu mà ra. Mà hư yếu phần nhiều bởi tạng thận. Nội kinh nói: “Gặp chứng hư yếu phải bội tạng thận để giữ lấy mệnh môn". Nội kinh nói thêm: “Việc làm thuốc mà biết được yếu lĩnh thì mọi cái là xong. Không biết được yếu lĩnh thì man mác vô cùng!”.

Hải Thượng Lãn Ông kết luận: “Đem phương pháp để chữa một bệnh suy rộng ra có thể chữa được bách bệnh. Mà phương pháp chữa được bách bệnh về căn bản cũng như chữa được một bệnh vậy!”.

LƯƠNG Y TRẦN THÂN

Nguồn: http://nongnghiep.vn/hai-bai-thuoc-noi-tieng-cua-truong-trong-canh-post47067.html

Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2015

ĐÔNG DƯỢC PHỐI NGŨ

Đây là phương pháp phối ngũ lâm sàng buộc người học phải nắm chắc và học thuộc lòng. Về sau tôi sẽ đưa ra các vị thuốc chủ dẫn vào tạng phủ. Khi đã nắm chắc lý luận, tôi sẽ hướng dẫn các bạn trẻ cách đối chứng lập phương.


ĐÔNG DƯỢC PHỐI NGŨ

I) THUỐC GIẢI BIỂU

1) Tân Ôn Giải Biểu:

a) Ma hoàng phối Quế chi: Sức phát hãn giải biểu mạnh. Chủ trị phong hàn biểu thực không có mồ hôi.

b) Ma hoàng phối Hạnh nhân: Vừa có công năng giáng khí, lại vừa bình suyễn chỉ khái. Chủ trị ho suyễn khí nghịch, thích hợp với chứng thuộc phong hàn thúc bó Phế.

c) Ma hoàng phối với Thạch cao: Có công năng thanh Phế bình suyễn thấu biểu nhiệt. Chủ trị Phế nhiệt ho suyễn.

d) Quế chi phối với Bạch thược: Có sức thâu tán mạnh, điều hòa doanh vệ, tán phong liễm doanh, giải cơ phát biểu. Chủ trị phong hàn biểu hư có mồ hôi.

e) Tế tân phối với Can khương, Ngũ vị: Trong ôn táo có liễm nhuận; vừa có công năng ôn Phế hóa đàm, lại không hao khí thương âm. Chủ trị hàn ẩm ho suyễn lâu ngày.


2) THUỐC TÂN LƯƠNG GIẢI BIỂU

a) Thiền thoái phối với Đại hải: có công năng thanh tuyên Phế khí, khai yết lợi âm (thông hầu họng, trị khàn giọng mất tiếng) rất mạnh. Chuyên trị phong nhiệt, hoặc Phế nhiệt sinh đau họng, mất giọng.

b) Cúc hoa phối với Câu kỷ tử: Mạnh về bổ Can Thận, sáng mắt. Trị các chứng mắt mờ, hoa, nhìn vật lờ mờ, do Can Thận khuy hư.

c) Sinh cát căn phối với Hoàng cầm, Hoàng liên: vừa thanh nhiệt giải độc, lại thấu nhiệt thăng dương, chỉ tả. Chủ trị tả lỵ thể thấp nhiệt mới phát.

d) Sài hồ phối với Hoàng cầm: Thanh giải tà nhiệt ở bán biểu bán lý. Chủ trị hàn nhiệt vãng lai ở Thiếu dương.



II) THUỐC THANH NHIỆT

1) Thuốc Thanh Nhiệt Tả Hỏa

a) Thạch cao phối Tri mẫu: Thanh nhiệt tả hỏa, tư âm sinh tân. Vừa trị nhiệt thịnh ở khí phận; lại vừa trị chứng hỏa nhiệt thương tân Phế Vị.

b) Tri mẫu phối với Hoàng bá: Kiện âm (mạnh phần âm), thanh nhiệt giáng hỏa. Trị âm hư hỏa vượng rất hiệu quả.

c) Tri mẫu phối với Xuyên bối mẫu: Vừa tư âm nhuận Phế, lại vừa thanh nhiệt hóa đàm. Chuyên trị âm hư lao khái, Phế táo khái thấu.

d) Chi tử phối với Đạm đậu xị: Mạnh về thanh tán uất nhiệt trừ phiền. Trị ôn bệnh lúc mới phát, trong ngực bức rứt phiền muộn, cùng chứng hư phiền không ngủ.

e) Chi tử phối nhân trần: Mạnh về lợi thấp thoái hoàng. Chuyên trị thấp nhiệt hoàng đản.



2) Thuốc Thanh Nhiệt Táo Thấp.

a) Hoàng liên phối với Mộc hương: Có công năng táo thấp giải độc, lại lý khí chỉ thống. Trị phúc thống thấp nhiệt tả lỵ. Thường dùng trị lý cấp hậu trọng.

b) Hoàng liên phối với Ngô thù du: Vừa thanh nhiệt tả hỏa táo thấp, lại vừa sơ Can hòa vị, chế toan (khống chế vị chua trong dạ dày). Trị Can hỏa phạm vị, chứng ợ chua do thấp nhiệt tồn trở bên trong.

c) Hoàng liên phối với Bán hạ, Qua lâu: Vừa tả hỏa hóa đàm, lại có thể tiêu tán bĩ kết. Chuyên trị chứng kết hung do đàm hỏa kết hợp với nhau.

d) Hoàng bá phối với Thương truật: Vừa thanh nhiệt lại táo thấp, đi xuống hạ tiêu. Chuyên trị các chứng thấp nhiệt, nhất là các chứng hạ tiêu thấp nhiệt.



3) Thuốc Thanh Hư Nhiệt.

a) Thanh hao phối với Bạch vi: Vừa chuyên thoái hư nhiệt, lương huyết nhiệt, lại kiêm thấu tán. Vừa trị âm hư phát nhiệt, tiểu nhi cam tích (kiêm biểu tà), lại vừa trị doanh huyết phận có nhiệt, cùng các chứng âm phận phục nhiệt.

b) Thanh hao phối với Miết giáp: Vừa thanh thoái hư nhiệt, lại vừa có thể tư âm lương huyết, chuyên trị âm hư phát nhiệt.

c) Địa cốt bì phối với Tang bạch bì: Vừa thanh Phế hỏa, lại lợi thủy, dẫn nhiệt tà đi ra theo đường nước tiểu, lại nhuận Phế tạng mà không có tính khổ tiết tổn thương đến âm. Vậy nên chuyên dùng để trị ho do Phế nhiệt.

d) Bạch liễm phối với Ngọc trúc: Vừa tư âm lại thấu biểu. Trị âm hư ngoại cảm.



III) THUỐC TẢ HẠ

1) Thuốc Công Hạ:

a) Đại hoàng phối với Mang tiêu: Vừa chuyên tả hạ công tích, làm mềm tích trệ trong trường vị, lại còn chuyên thanh nhiệt tả hỏa. Chuyên trị thực nhiệt tích trệ, đại tiện táo kết, kiên ngạnh khó hạ.

b) Đại hoàng phối với Ba đậu, Can khương: Ba đậu có được Đại hoàng, thì sức tả hạ có tính hoãn hơn; Đại hoàng có được Ba đậu, thì tính hàn bị giảm đi, lại thêm vị Can khương ôn trung tán hàn, trợ có lực tán hàn. Chuyên trị tiện bí do hàn tích.





 VI) THUỐC KHU PHONG THẤP

a) Khương hoạt phối với Độc hoạt: đi vào lý, ra đến biểu, sức tán phong thấp rất mạnh. Chuyên trị phong thấp tý thống, bất kể trên dưới đều được.

b) Tang ký sinh phối với Độc hoạt: Vừa khư phong hàn thấp, lại mạnh lưng gối. Chuyên trị đau nhức do phong thấp tý trở, lưng gối mỏi mềm.

c) Hy thiêm thảo phối với Xú ngô đồng: Khư phong thấp, thông kinh lạc, trị đau nhức do phong thấp tý trở, cân mạch co quắp.



IV) THUỐC PHƯƠNG HƯƠNG HÓA THẤP

a) Thương truật phối Hậu phác, Trần bì: lực táo thấp mạnh, lại có thể hành khí. Chuyên dùng trong các trường hợp hàn thấp trở trệ bên trong, Tỳ Vị khí trệ.

b) Hậu phác phối chỉ thực: Lực táo thấp, tiêu tích, hành khí mạnh. Chủ trị thập trọc trở trệ bên trong, hoặc thực tích đình trệ, bụng dạ trướng đau do Tỳ Vị khí trệ, cùng với các chứng ho suyễn do đàm trọc cản trở Phế, ngực đầy, bụng trướng.

c) Hoắc hương phối Bội lan: chuyên hóa thấp hòa trung, giải thử phát biểu. Phàm thấp trọc át trở bên trong, bất luận là kiêm hàn hay kiêm nhiệt, có biểu chứng hay không cũng đều dùng được.

d) Sa nhân phối với Mộc hương: Lực hóa thấp lý khí, điều trung chỉ thống mạnh. Phàm chứng thấp trệ thực tích, hoặc hiệp hàn dẫn đến bụng dạ trướng đau đều có thể dùng, kiêm tỳ hư thì nên phối dùng với các vị kiện tỳ.



VI) THUỐC LỢI THỦY THẤM THẤP

a) Phục linh phối Trư linh: lực lợi thủy sấm thấp mạnh. Trị thủy thấp nội thịnh, hoặc kiêm tỳ hư.

b) Hoạt thạch phối Sinh cam thảo: Vừa thanh lợi thử thấp, lại lợi thủy mà không tổn thương tân dịch. Chủ trị thử thấp, thân nhiệt phiền khát.



VII) THUỐC ÔN LÝ

a) Phụ tử phối với Can khương: Lực hồi dương cứu nghịch và ôn trung rất mạnh. Chuyên trị vong dương, cùng với chứng trung tiêu hàn lãnh.

b) Phụ tử phối Tế tân, Ma hoàng: Chuyên bổ dương phát biểu, tán hàn. Trị âm hư ngoại cảm phong hàn.

c) Nhục quế phối với Phụ tử: Bổ hỏa trợ dương, tán hàn chỉ thống. Trị thận âm hư suy, Thận Tỳ hư suy cùng chứng lý hàn nặng đều có thể dùng.

d) Ngô thù phối với Bổ cốt chi, Ngũ vị tử, Nhục đậu khấu: Vừa ôn bổ tỳ thận vong dương, sáp trường chỉ tả, lại còn tán hàn táo thấp hòa trung, trị chứng tả lỵ lâu ngày do Tỳ Thận dương hư.

e) Đinh hương phối với Thị đế: Vừa ôn trung tán hàn, lại giáng khí trị nấc. Trị chứng nôn mửa, nấc,do hư hàn.



VIII) THUỐC LÝ KHÍ

a) Trần bì phối với Bán hạ: Lực táo thấp hóa đàm mạnh. Phạm các chứng đàm thấp đình trệ bên trong Phế đều có thể dùng được.

b) Chỉ thực phối với Bạch truật: Vừa bổ khí kiện Tỳ, lại hành khí tiêu tích khư thấp. Chuyên trị Tỳ hư khí trệ, hiệp tích hiệp thấp.

c) Hương phụ phối với Cao lương khương: Vừa ôn trung tán hàn, lại sơ Can lý khí, chuyên chỉ thống. Trị hàn ngưng khí trệ, Vị quản trướng đau do Can khí phạm vị.

d) Xuyên luyện tử phối với Huyền hồ sách: Lực hành khí hoạt huyết chỉ thống mạnh. Chuyên trị các chứng đau nhức do huyết ứ khí trệ.

e) Giới bạch phối với Qua lâu: Vừa hóa đàm tán kết, lại khoan hung thông dương. Trị đàm trọc trở trệ, trị chứng hung tý (đau lồng ngực) do dương khí trong lồng ngực không mạnh mẽ.

f) Ô dược phối với Ích trí nhân, Sơn dược: ba vị phối hợp, chuyên bổ thận súc niệu, lại không quá táo nhiệt. Trị các chứng di niệu, sác niệu do Thận hư.



IX) THUỐC TIÊU THỰC

a) Thần khúc phối với Mạch nha, Sơn tra: Vừa tiêu được các loại thực tích, lại vừa kiện vị hòa trung. Dùng trong cac trường hợp thực tích, ăn không tiêu. Ba vị thường sao xém (tiêu) mà dùng, nên thường quen gọi là Tiêu Tam Tiên.

b) Lai bặc tử phối với Tô tử, Bạch giới tử: Vừa ôn Phế hóa đàm, lại giáng khí chỉ khái bình suyễn, tiêu thực tích, trừ trướng thông tiện. Chuyên trị ho suyễn thể hàn đàm, kiêm trị thực tích tiện bí.



X) THUỐC KHU TRÙNG

Binh lang phối với Thường sơn: hai vị kết hợp, hàn nhiệt đều dùng được, tương phản tương thành. Vừa mạnh trong việc khư đàm trừ sốt rét, lại có thể giảm thiểu tác dụng phụ của Thường sơn là thổ mạnh. Chuyên trị sốt rét lâu ngày không dứt.



XI) THUỐC CHỈ HUYẾT

a) Đại kết phối với Tiểu kế: Hai vị này hợp dùng với nhau để tăng cường thêm công năng. Chuyên trị các chứng huyết nhiệt xuất huyết, cùng các chứng nhiệt độc sưng lở.

b) Bạch cập phối với Tam thất: Hai vị hợp dùng, một cầm một hành, lực cầm máu (chỉ huyết) mạnh mà lại không bị ức huyết. Có thể trị các chứng chứng xuất huyết, uống trong hay dùng ngoài đều được.

c) Bạch cập phối với Ô tắc cốt: hai vị phối hợp, không những lực chỉ huyết mạnh, mà có thúc đẩy vết lở loét mau lành. Chuyên trị chứng thổ huyết và tiện huyết do loét vị quản, hoành tá tràng.

d) Bồ hoàng phối với Ngũ linh chi: Bất luận dùng sống hay sao, đều có thể hoạt huyết chỉ thống, hóa ứ chỉ huyết. Chuyên trị huyết ứ, các chứng đau ngực, sườn, bụng, cùng các chứng huyết ứ, xuất huyết.

e) Ngải diệp phối với A giao: Vừa dưỡng huyết chỉ huyết, lại tán hàn - ấm bào cung, điều kinh. Trị các chứng băng lậu đới hạ thuộc huyết hư có hàn.



XII) THUỐC HOẠT HUYẾT KHƯ Ứ.

a) Xuyên khung phối với Sài hồ, Hương phụ: Vừa sơ Can giải uất, lại lý khí hoạt huyết. Trị chứng lồng ngực bứt rứt, sườn đau nhói do Can uất khí trệ; thống kinh, cùng kinh nguyệt không đều.

b) Uất kim phối Thạch sương bồ: Vừa hóa thấp khoát đàm, lại thanh tâm khai khiếu. Trị đàm hỏa hoặc thấp nhiệt nhiễu loạn tâm khiếu khiến hôn mê điên cuồng, điên giản.

c) Ngưu tất phối với Thương truật, Hoàng bá: Lực thanh nhiệt táo thấp mạnh, lại đi xuống hạ tiêu. Chuyên trị chứng chân gối sưng đau, yếu mềm vô lực do hạ tiêu thấp nhiệt, cùng các chứng thấp chẩn, thấp sang.



XIII) THUỐC HÓA ĐÀM CHỈ KHÁI BÌNH SUYỄN

Tuyền phúc hoa phối với Đại giả thạch: Hai vị hàn ôn cùng dùng, có lực giáng khí nghịch ở Phế Vị. Chuyên trị khí nghịch sinh nôn ọe, suyễn tức.


XIV) THUỐC AN THẦN

Tử thạch phối với Chu sa: Hai vị phối hợp, tăng mạnh lực trọng trấn an thần. Chuyên trị phiền táo bất an, tâm quý mất ngủ.



XVII) THUỐC BỔ HƯ

1) Thuốc Bổ Khí:

a) Nhân sâm phối với Phụ tử: Đại bổ đại ôn, ích khí hồi dương. Chuyên trị vong dương khí thoát.

b) Nhân sâm phối với Cáp giới: Có công năng bổ Phế ích Thận, định suyễn. Chuyên trị Phế Thận lưỡng hư, động làm việc là khí suyễn.

c) Nhân sâm phối với Mạch đông, Ngũ vị tử: Có công năng ích khí dưỡng âm, sinh tân chỉ khát. Trị chứng khô khát nhiều mồ hôi do khí âm lưỡng hư, cùng chứng tiêu khát.

d) Hoàng kỳ phối với Sài hồ, Thăng ma: Bổ trung ích khí, Thăng dương cử hãm . Là thuốc chuyên dùng để trị Trung khí hạ hãm, các chứng tạng khí sa thoát.

e) Cam thảo phối dùng với Bạch thược: Lực hoãn cấp, chỉ thống mạnh. Trị chứng vị quản và bụng, hoặc tứ chi co rút đau nhức.

Trần Quang Thống.  

Nguồn: http://www.yhoccotruyen.org/ViewTopic.jsp?tid=5130&fid=6&Page=1&trp=6&ttp=43

Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2015

Bát mạch giao hội bát huyệt ca

八脈交會八穴歌
Bát mạch giao hội bát huyệt ca

公孫衝脈胃心胸。
công tôn xung mạch vị tâm hung.
內關陰維下總同。
nội quan âm duy hạ tổng đồng.
臨泣膽經連帶脈。
lâm khấp đởm kinh liên đới mạch.
陽維目銳外關逢。
dương duy mục nhuệ ngoại quan phùng.
後谿督脈內眥頸。
hậu khê đốc mạch nội tí cảnh.
申脈陽蹻絡亦通。
thân mạch dương kiều lạc diệc thông.
列缺任脈行肺系。
liệt khuyết nhâm mạch hành phế hệ.
陰蹻照海膈喉嚨。
âm kiều chiếu hải cách hầu lung.

經絡分寸歌 Kinh lạc phân thốn ca.


Lục phủ tỉnh vinh du nguyên kinh hợp ca

六府井滎俞原經合歌
Lục phủ tỉnh vinh du nguyên kinh hợp ca

陽明大腸井商陽
dương minh đại trường tỉnh thương dương.
二間為滎俞三間
nhị gian vi vinh du tam gian
合谷原經陽谿取
hợp cốc nguyên kinh dương khê thủ.
曲池為合正相當
khúc trì vi hợp chính tương đương.
陽明胃脈井厲兌
dương minh vị mạch tỉnh lệ đoài.
內庭為滎須要會
nội đình vi vinh tu yếu hội.
陷谷名俞衝陽原
hãm cốc danh du xung dương nguyên.
經合解谿三里位。
kinh hợp giải khê tam lý vị.
太陽小腸井少澤
thái dương tiểu trường tỉnh thiếu trạch.
流於前谷為滎穴
lưu ư tiền cốc vi vinh huyệt.
後谿為俞原腕谷
hậu khê vi du nguyên uyển cốc.
經合陽谷小海歇
kinh hợp dương cốc tiểu hải hiết.
太陽膀胱井至陰
thái dương bàng quang tỉnh chí âm.
通谷為滎亦穴名
thông cốc vi vinh diệc huyệt danh.
束骨為俞原京骨
thúc cốt vi du nguyên thúc cốt.
崑崙為經合委中。
côn lôn vi kinh hợp uỷ trung.
少陽三焦井關衝
thiếu dương tam tiêu tỉnh quan xung.
尋至液門號為滎
tầm chí dịch môn hiệu vi vinh.
俞原中渚陽池取
du nguyên trung chử dương trì thủ.
經合蠡溝天井中
kinh hợp lãi câu thiên tỉnh trung.
少陽膽脈井竅陰
thiếu dương đởm mạch tỉnh khiếu âm.
俠谿為滎是穴名
hiệp khê vi vinh thị huyệt danh.
俞原臨泣坵墟穴
du nguyên lâm khấp khâu khư huyệt.
經歸陽輔合陽陵。
kinh quy dương phụ hợp dương lăng.

經絡分寸歌 Kinh lạc phân thốn ca.